Trích đăng

Mặt trăng và pin, trích chương 1 “Chiếc cặp” – Hiromi Kawakami

“Trong dòng chảy văn xuôi yên bình, thấm đẫm vẻ đẹp thiên nhiên nhấn mạnh nỗi cô đơn của cả hai nhân vật, Kawakami đã tinh tế nắm bắt các hình thái của sự cô đơn trong khi cân nhắc định nghĩa về tình yêu.”

Published

on

Chi tiết tác phẩm

[Chương 1] Chiếc cặp

Trích từ: Chiếc cặp – Giải văn học Tanazaki 2001

Tác giả: Hiromi Kawakami

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 3.2019

Mặt trăng và pin

Tên đầy đủ của ông ấy là Harutsuna Matsumoto nhưng tôi thường gọi ông là “Sensei” mà không là “Mr” hay “Sir”, chỉ đơn giản là “Sensei”.

Sensei là giáo viên tiếng Nhật của tôi ở trường trung học. Không phải giáo viên chủ nhiệm và tiếng Nhật cũng chẳng phải môn tôi ưa thích, nên thật sự tôi chẳng có mấy ấn tượng về ông. Từ khi tốt nghiệp, đã lâu rồi chúng tôi chưa gặp lại.

Nhiều năm trước, chúng tôi từng ngồi cạnh nhau trong quán bar đông đúc cạnh nhà ga, rồi sau đó thi thoảng đôi ba lần hội ngộ. Tối hôm đó, ngồi bên quầy, tấm lưng ông thẳng đến mức gần như trũng vào thành hình lòng chảo.

Kiếm cho mình chỗ ngồi tại quầy bar, tôi gọi món “cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men, củ sen chiên giòn và hành muối”, trong khi người đàn ông lớn tuổi ngay cạnh tôi gọi hầu như cùng lúc “hành muối, củ sen chiên giòn, cá ngừ ăn kèm đậu nành lên men”. Khi liếc nhìn qua và bắt gặp tức thì ánh nhìn trực diện, tôi bất giác tự nhủ rằng hình như gương mặt này không xa lạ.

Sensei mở lời:

“Xin lỗi, có phải Tsukiko Omachi?”

Do bất ngờ nên tôi chỉ gật đầu đáp lại.

“Tôi đã nhìn thấy em đến đây một vài lần”, Sensei nói.

“Vậy ạ”. Tôi trả lời có phần lơ đãng trong khi vẫn nhìn ông. Mái tóc trắng của Sensei được cẩn thận vuốt ngược ra sau, trên người mặc chiếc sơ-mi trắng phẳng phiu cùng vest xám. Trên mặt quầy trước mặt ông có chai rượu sake, dĩa bày lát mỏng thịt cá voi khô và chén có một ít rong biển mozuku1. Tôi tò mò về người đàn ông có cùng sở thích với mình, và rồi hình ảnh người thầy giáo đứng trên bục giảng lững lờ trôi qua tâm trí tôi.

Sensei luôn vừa cầm giẻ lau trong tay vừa viết lên bảng. Những dòng phấn trắng thoắt hiện ra như câu đầu tiên trong tùy bút Makura no Sōshi của Sei Shōnagon: “Bình minh đẹp nhất là vào mùa xuân”, rồi lại bị xóa mất đi sau chưa đầy năm phút. Ngay cả khi quay xuống giảng bài cho học trò của mình, ông vẫn cầm khư khư miếng giẻ lau như thể nó bị dính chặt vào tay trái vậy.

“Thật không bình thường khi thấy phụ nữ ngồi một mình ở nơi như thế này”, Sensei vừa nói vừa khéo léo rưới nước xốt miso trộn giấm lên lát cá voi khô cuối cùng và thưởng thức.

“Dạ vâng”, tôi cũng rót bia vào ly của mình. Tôi nhận ra ông là giáo viên trung học cũ nhưng không tài nào nhớ nổi tên ông. Vì thế, khi thấy ông lại có thể nhớ rõ tên học trò mình đến vậy, nỗi ngạc nhiên trong tôi còn pha lẫn cả sự bối rối sau ly bia nốc cạn.

“Em không thắt bím tóc như khi còn là nữ sinh trung học à?”

“Dạ vâng.”

“Tôi nhận ra em ngay khi nhìn thấy đấy.”

“Vậy ạ.”

“Năm nay em đã ba mươi tám rồi nhỉ?”

“Ba mươi bảy thôi ạ.”

“Tôi xin lỗi.”

“Không có gì.”

“Tôi đã ghi nhớ các học trò của mình dựa theo sổ sách và kỷ yếu.”

“À…”

“Nhìn em không khác lúc đi học là mấy.”

“Sensei cũng vậy.” Tôi gọi ông là “Sensei” để che giấu việc không nhớ nổi tên thầy và cứ mãi gọi ông như vậy.

Tối hôm đó, chúng tôi uống tổng cộng năm bình rượu sake, tiền do Sensei thanh toán. Lần tiếp theo chúng tôi gặp nhau ở quầy rượu và đến phiên tôi trả tiền. Lần thứ ba và những lần sau đó, chúng tôi chia đều hóa đơn, thật tự nhiên như chính cái sở thích làm khách quen những quán rượu của cả hai. Không chỉ có cùng thú vui ẩm thực, chúng tôi còn đồng điệu về tích cách. Mặc cho khoảng cách hơn ba mươi tuổi, tôi vẫn cảm thấy thân thuộc với ông hơn bạn bè cùng trang lứa.

Tôi đã đến nhà Sensei nhiều lần. Ban đầu, chúng tôi chỉ uống ở quán rượu, nhưng cũng có một vài lần địa điểm đổi trao chén rượu là tại nhà của Sensei.

“Tôi sống ở gần đây, em có muốn ghé qua?” Sensei nói vậy vào lần đầu tiên mời tôi thăm nhà, và tôi cảm thấy đôi chút rụt rè. Tôi nghe nói rằng vợ ông đã mất. Đến nhà một người đàn ông góa vợ có vẻ chẳng hay ho gì, nhưng một khi đã bắt đầu uống rượu thì tiếng nói lý trí không còn đủ mạnh, vì vậy tôi nối bước đi cùng ông.

Căn nhà bừa bộn hơn tôi tưởng tượng. Tôi cứ nghĩ nơi này sẽ chỉn chu hơn là hình ảnh đồ đạc chất đống ở mọi góc tối. Ngay gian lớn trải thảm tĩnh mịch là một chiếc ghế dài cũ kỹ nằm bất động và không có dấu hiệu nào của những quyển sách, xấp giấy trắng phẳng phiu hay vài tờ báo rải rác như ở phòng trải chiếu tatami kề bên.

Sensei bày chiếc bàn thấp ra và lấy một bình rượu sake lớn từ mớ bề bộn ở góc phòng. Ông rót đầy tràn hai cái ly nhỏ có kích cỡ khác nhau.

“Xin mời”, Sensei nói trước khi quay lưng đi vào bếp. Căn phòng trải chiếu tatami nhìn ra một khu vườn. Chỉ có một trong những cánh cửa xếp để mở. Qua cánh cửa kính tôi có thể thấy hình dáng những cành cây ẩn hiện mơ hồ. Kiến thức thực vật học không đủ để giúp tôi nhận biết chúng là cây gì, trừ khi bản thân chúng là giống cây biết trổ hoa.

“Trong vườn có những loài cây gì vậy ạ?” Tôi hỏi Sensei ngay khi ông mang ra một cái khay đựng những miếng cá hồi khô, kaki-no-tane và bánh gạo.

“Chúng đều là cây anh đào đó”, ông đáp.

“Tất cả luôn ư?”

“Đúng rồi, tất cả. Vợ tôi rất thích chúng.”

“Hẳn chúng rất đẹp vào mùa xuân.”

“Giờ đây chúng đang chung sống cùng lũ côn trùng. Vào mùa thu, lá vàng rơi rụng khắp nơi, còn mùa đông những cành cây khô trơ trụi và ảm đạm”, Sensei nói một mạch mà không có bất kỳ thái độ chán ngán nào.

“Mặt trăng tối nay như lặn đi đâu mất.” Nửa mảnh trăng lờ mờ đang treo lơ lửng trên bầu trời.

Sensei lấy một cái bánh gạo và nghiêng chiếc ly nhỏ để đổ sake vào. “Vợ tôi không phải kiểu người suy tính quá nhiều.”

“Dạ vâng.”

“Bà ấy chỉ yêu những gì mình yêu, ghét những gì mình ghét.”

“À.”

“Kaki-no-tane này là từ Niigata, có vị rất cay và ngon miệng.”

Bánh gạo giòn rụm khá hợp với rượu sake. Tôi ngồi nhấm nháp và im lặng hồi lâu, lắng nghe tiếng ríu rít trên ngọn cây bên ngoài của chú chim lạc bầy nào đó, lá cây rung lên xào xạc, rồi không gian lại trở nên yên ắng.

“Có tổ chim nào ngoài vườn không?” Tôi hỏi, nhưng không nhận được hồi đáp. Tôi quay lại, thì ra Sensei đang chăm chú vào một tờ báo. Không phải báo ngày hôm nay mà là tờ báo ông đã lôi ra ngẫu nhiên từ mớ giấy tờ rải rác khắp nơi. Ông ấy đang đọc trang tin tức nước ngoài có ảnh một người phụ nữ trong bộ đồ tắm, và dường như quên mất sự hiện diện của tôi.

“Sensei”, tôi gọi, nhưng ông vẫn không phản ứng, có vẻ như đang hoàn toàn tập trung.

“Sensei,” tiếng gọi của tôi lớn hơn. Sensei ngước nhìn lên.

“Tsukiko muốn đọc báo không?” Ông đột ngột hỏi, rồi không đợi tôi trả lời, Sensei đặt tờ báo để mở trên sàn chiếu tatami, trượt tấm cửa kéo đi vào phòng kế bên. Khi quay lại, ông mang theo vài thứ từ thư phòng, là những miếng gốm nhỏ. Sensei đi qua đi lại giữa các căn phòng.

“Chúng đây rồi.” Khóe mắt Sensei nheo lại, cẩn thận xếp những mảnh gốm lên sàn chiếu tatami. Chúng có quai cầm, cái nắp và một cái vòi. “Nhìn chúng kìa!”

“Em thấy rồi.” Nhưng đó là gì? Tôi nhìn chằm chằm vào chúng, suy nghĩ xem đã từng thấy thứ gì giống vậy trước đây chưa. Là một chiếc ấm trà? Nhưng chúng quá nhỏ.

“Đó là những cái ấm trà trên đường ray”, Sensei nói.

“Ấm trà trên đường ray ư?”

“Từ những chuyến đi của tôi. Tôi đã mua cơm hộp ăn trưa ở nhà ga hoặc trên tàu đi kèm với những chiếc ấm trà này. Bây giờ toàn là ấm nhựa, nhưng họ đã từng sử dụng và bày bán loại ấm bằng gốm như thế này.”

“Tôi từng có hàng dài hơn chục chiếc ấm. Một số có màu hổ phách, còn lại có màu nhạt hơn, và có hình dạng khác nhau. Cái thì có vòi lớn, cái có quai cầm lớn, cái này có nắp bé tẹo, cái kia lại có thân tròn mập mạp”.

“Sensei sưu tầm chúng?” Tôi hỏi, và ông lắc đầu.

“Tôi chỉ mua kèm theo các hộp cơm trưa khi rong ruổi trên những chuyến tàu.”

“Cái này là từ năm tôi bắt đầu học đại học, khi du lịch quanh Shinshu. Còn đây là lúc tôi đến Nara cùng đồng nghiệp trong kỳ nghỉ hè – hai chúng tôi xuống tàu ở điểm dừng để ăn trưa, và đoàn tàu khởi hành ngay khi chúng tôi chuẩn bị quay trở lại! Cái kia thì được mua ở Odawara vào tuần trăng mật của tôi – vợ tôi mang nó suốt cả chuyến đi, gói bằng giấy báo và nhồi trong đống quần áo hành lý để nó không bị vỡ”, Sensei vừa giải thích vừa chỉ vào từng cái ấm xếp hàng cạnh nhau. Tôi chỉ biết gật gù và lí nhí vài câu nói cho mỗi câu chuyện kể.

“Em từng nghe nói một số người có sở thích sưu tầm những thứ thế này.”

“Trong đó có em không?”

“Tất nhiên là không rồi! Em chưa bao giờ nghĩ đến!”.

Khóe mắt nheo lại, Sensei tiếp tục câu chuyện của mình, “Tôi chỉ đơn giản cho em xem những thứ tôi lưu giữ trong suốt thời gian rất dài.”

“Tôi dường như không thể vứt bỏ bất cứ thứ gì”, Sensei nói, đi vào phòng bên cạnh và lần này mang theo vài túi nhựa nhỏ.

“Xem này…”, ông mở nút thắt một chiếc túi nhựa, lấy ra một đống pin cũ bên trong. Trên thân chúng còn in dấu của những nhãn hiệu. Ông cầm một trong số đó trên tay.

“Pin này là từ năm xảy ra cơn bão vịnh Ise. Cơn bão đã tấn công Tokyo khủng khiếp hơn mọi dự báo và tưởng tượng, và mùa hè đó tôi đã tận dụng hết lượng pin dự trữ cho đèn pin.”

“Máy cassette có chức năng ghi âm đầu tiên tôi mua yêu cầu tám cục pin loại C. Tôi dùng chúng để nghe những bản giao hưởng của Beethoven nhiều lần, và số lượng pin dùng hết chỉ trong vài ngày! Tất nhiên khó lưu trữ cả bộ tám cục pin, vì vậy tôi quyết định chỉ nhắm mắt giữ lại một”.

“Tôi thấy thương đống pin bị tận dụng triệt để nhằm phục vụ lợi ích của mình nên chẳng đành lòng vứt chúng đi. Cảm thấy thật tủi hổ khi ném chúng vào sọt rác ngay khi chúng đã hoạt động hết công suất, sau khi chúng chiếu sáng đèn cho tôi, ngân vang thứ âm nhạc tôi ưa thích.”

“Em không nghĩ vậy sao, Tsukiko?” Sensei nhìn tôi chằm chằm khi đưa ra câu hỏi.

Tôi tự hỏi trả lời thế nào đây, khi tôi vẫn đang theo quán tính lẩm ba lẩm bẩm lại những câu tẻ nhạt của mình. Ngón tay tôi chạm vào một cục pin đã gỉ sét và ẩm ướt hiệu Casio trong số hàng tá pin đủ mọi kích cỡ.

“Mặt trăng đã xuống thấp thật rồi”, Sensei nhỏ giọng. Mặt trăng đã sáng rõ trở lại từ đám mây.

“Hương vị trà đựng trong những chiếc ấm này chắc là ngon lắm”, giọng nói của tôi cũng trở nên nhẹ nhàng hơn.

“Vậy dùng trà nhé?” Sensei gợi ý và vươn cánh tay lục tìm xung quanh vị trí của bình rượu sake lớn, cuối cùng lôi ra được một hộp trà. Ông đặt một ít lá trà vào chiếc ấm màu hổ phách, sau đó rót nước nóng vào từ một chiếc bình giữ nhiệt cũ cạnh bàn.

“Một người học trò đã tặng tôi bình giữ nhiệt này, xuất xứ từ Mỹ. Nước đã nấu từ hôm qua mà giờ vẫn còn ấm được thế này, ngạc nhiên làm sao.”

Sensei rót trà vào hai cái ly nhỏ mà chúng tôi uống rượu sake trước đó và xoa xoa chiếc bình giữ nhiệt như bảo vật. Chắc chắn còn dính chút rượu trong ly của tôi, bởi vì trà có một hương vị lạ lùng. Men rượu cộng hưởng thêm trà, tôi bỗng muốn nhìn rõ hơn khung cảnh xung quanh mình.

“Sensei, em có thể tham quan nơi này không?” Và không đợi trả lời, tôi bắt đầu khám phá những thứ bừa bộn trong căn phòng trải chiếu tatami. Có giấy vụn. Một bật lửa Zippo cũ. Gương bỏ túi. Có ba chiếc cặp da màu đen lớn, mỗi cặp đều được gấp lại. Chúng đều giống nhau. Có những cánh hoa. Một cái bàn giấy. Và thứ gì đó bằng nhựa màu đen có hình dạng chiếc hộp, trên đó còn có một cây kim.

“Cái này là gì?” Tôi hỏi, nhấc chiếc hộp màu đen lên.

“Để tôi xem… À, đó là vật thử nghiệm.”

“Vật thử nghiệm?” Tôi lặp lại, khi Sensei nhẹ nhàng cầm lấy chiếc hộp đen từ tay tôi và lục tìm bên trong. Có một sợi dây màu đen và một sợi dây màu đỏ, ông gắn chúng vào vật thử nghiệm đó. Cả hai sợi đều còn một đầu dây nối nữa.

“Như thế này”, Sensei nói, nối đầu còn lại của sợi dây màu đỏ và sợi dây màu đen với cục pin có dòng chữ Electric Shaver.

“Thấy không, Tsukiko, nhìn vào đây!” Vì cả hai tay đều bận, Sensei vừa ra hiệu bằng cằm vừa chỉnh lại vật thử nghiệm này. Cây kim trên đó rung lên. Ông dịch chuyển mối dây ra khỏi cục pin và cây kim vẫn chuyển động, kết nối tiếp tục và nó lại rung lên.

“Vẫn còn một chút năng lượng sót lại phải không?” Sensei nhẹ nhàng nói. “Không đủ sức để vận hành một động cơ, nhưng trong đó vẫn tồn tại một ít sự sống.”

Sensei đo từng loại pin với máy thử đó. Hầu hết chúng không khiến cây kim chuyển động, một số lại cho kết quả khả quan. Mỗi lần như vậy, ông ấy lại thốt lên vui vẻ.

“Dấu hiệu bé nhỏ nhất của cuộc sống,” tôi kết luận, và Sensei gật đầu trong vô thức.

“Nhưng cuối cùng chúng cũng tê liệt cả thôi”, giọng ông đầy vẻ mỏi mệt như vọng lại từ nơi nào xa lắm.

“Chúng sẽ trải qua cuộc đời này bên trong tủ quần áo.”

“Đúng như vậy.”

Cả hai chúng tôi ngồi yên một lúc, lặng lẽ thưởng lãm mặt trăng ở trên cao, cho đến khi Sensei cắt đứt bầu không khí này bằng câu nói đầy hứng khởi, “Chúng ta sẽ uống thêm ly nữa chứ?”, và nhanh chóng rót rượu sake.

“Ối, vẫn còn một ít trà trong ly.”

“Sake pha với trà?”

“Nhưng rượu sake không cần phải pha với bất kỳ hương vị gì trên đời cả.”

“Không sao đâu, Sensei.”

Tôi vừa nói vừa dốc cạn ly rượu sake chỉ trong một ngụm, trong khi Sensei vẫn đang nhấm nháp. Trên kia, mặt trăng chiếu rực rỡ thứ ánh sáng của đêm.

Đột nhiên, bằng chất giọng rõ ràng, truyền cảm, Sensei ngâm nga:

Ánh sáng bàng bạc trên sông

Xuyên qua hàng liễu Từ Ono trên những bãi ngầm.

“Cái gì vậy, một bài kệ ư?” Tôi hỏi.

Sensei thoáng tức giận. “Tsukiko à, em chưa bao giờ chú ý trong lớp Ngữ văn Nhật Bản đúng không?”

“Sensei đâu dạy tụi em bài đó đâu!”

“Đó là thơ của Seihaku Irako”, Sensei giảng giải.

“Em chưa bao giờ nghe về Seihaku Irako”, tôi lẩm bẩm và tự rót sake vào ly của mình.

“Thật không bình thường khi phụ nữ tự rót rượu cho mình”, Sensei xét nét.

“Ồ, Sensei đúng là người của thế hệ trước thật rồi!” Tôi cãi lại.

“Thì đúng vậy mà!” Ông càm ràm và cũng rót đầy ly rượu của mình.

Rồi tiếp tục bài thơ dang dở:

Từ Ono trên những bãi ngầm

Một cây sáo xuyên màn sương

Chạm vào trái tim lữ khách.

Mắt ông nhắm nghiền, như thể chính ông cũng đang chìm đắm vào âm điệu ngâm nga. Tôi nhìn chăm chú vào đám pin trên sàn. Chúng bất động trong thứ ánh sáng nhợt nhạt đang bao phủ. Mặt trăng lại một lần nữa khuất dạng trong mây mù.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Rong biển mozuku: loại rong biển màu nâu đậm, được thu hoạch vào mùa xuân nhiều nhất ở Okinawa (ND).

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Cafe sáng