Trích đăng

Trích đăng “Những cảnh đời tỉnh lẻ – Tuổi thơ” (J. M. Coetzee)

Bộ ba tác phẩm hợp thành “Những cảnh đời tỉnh lẻ” như một bức chân dung buồn bã pha lẫn khôi hài về cuộc đời của một nghệ sĩ, người luôn phải xoay trở để tìm ra hướng đi của riêng mình giữa các mối quan hệ trong giới học thuật và chính trường Cape Town sục sôi dưới chế độ Apartheid.

Published

on

Trích từ: Những cảnh đời tỉnh lẻ – Tuổi thơ

Tác giả: J. M. Coetzee

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Tái bản: tháng 6.2020

Giới thiệu tác phẩm: Những cảnh đời tỉnh lẻ – Tuổi thơ

Từ xưa đến nay không có nhiều nhà văn vừa được giới phê bình khen ngợi lại vừa chinh phục được đông đảo độc giả. J. M. Coetzee nằm trong số đó. Tuy nhiên, tác giả Nam Phi này hiếm khi nói về bản thân mình, cho đến khi Tuổi thơ được xuất bản vào năm 1997, hé mở những hồi ức chân thực về sự khởi đầu của nhà văn trẻ với lối tự thuật bậc thầy. Tiếp theo đó là những năm tháng dịu dàng và mãnh liệt của Tuổi trẻ và cách kể chuyện hài hước, khác thường ở Mùa hè.

Bộ ba tác phẩm hợp thành Những cảnh đời tỉnh lẻ như một bức chân dung buồn bã pha lẫn khôi hài về cuộc đời của một nghệ sĩ, người luôn phải xoay trở để tìm ra hướng đi của riêng mình giữa các mối quan hệ trong giới học thuật và chính trường Cape Town sục sôi dưới chế độ Apartheid.

Trong đó, Những cảnh đời tỉnh lẻ – Tuổi thơ là bản miêu tả sâu sắc và cực kỳ thuyết phục về một thời thơ ấu ở Nam Phi với lối kể chuyện mộc mạc và tiết chế như những bình nguyên bằng phẳng ở Karoo – nơi đã tạo nên bối cảnh cho câu chuyện.

*

Lời người dịch

Một cậu bé da trắng sinh ra ở Nam Phi, sống những ngày thơ bé giữa một bên là chế độ Apartheid chớm hình thành, một bên là những tương giao hồn nhiên với những con người đại diện cho chủng tộc bị coi rẻ. Một đứa con của hai nền văn hóa: dòng dõi Afrikan – hậu duệ của những người da trắng chiếm lĩnh và lập nên nhà nước Nam Phi từ bao đời trước – và nền giáo dục hướng về Anh quốc. Một thanh niên mộng thành nghệ sĩ, nhưng lại trở thành lập trình viên máy tính. Một người Nam Phi xem miền đất gắn liền với tổ tiên là một phần cốt lõi của chính mình, đồng thời lại tin rằng mình chẳng có tư cách kế thừa miền đất đó. John Coetzee, nhân vật chính của cuốn sách này, hội tụ nơi mình bao mối mâu thuẫn.

Qua các tên gọi và gốc gác, qua các chi tiết tương đồng với đời thực, ta dễ dàng có cảm tưởng đây là câu chuyện cuộc đời của chính nhà văn – J. M. Coetzee, chủ nhân của giải Nobel Văn chương 2003 và những tác phẩm soi chiếu xã hội Nam Phi đầy rẫy xung đột sắc tộc.

Thế nhưng, không thể gọi Scenes from Provincial Life – Những cảnh đời tỉnh lẻ –là hồi ký hay tự truyện của J. M. Coetzee.

Ta không thường thấy người viết tự truyện nói về mình ở ngôi thứ ba. Ta không thường thấy họ tập trung mô tả chính mình theo chiều hướng đáng phê phán, có khi đến mức thiếu phẩm cách như J. M. Coetzee đã làm. Quan trọng hơn hết, ta chắc chắn không có tự truyện nào tiếp diễn đến tận khi nhân vật chính đã chết, chỉ còn hiện diện trong lời kể của những người đã từng quen biết mình.

Không tuân theo lối kể chuyện truyền thống, cũng chẳng bị giới hạn vào một lối kể đơn nhất, Những cảnh đời tỉnh lẻ là một tác phẩm tự sự đa chiều. Ở chiều kích nổi trội nhất, bao trùm cả phần 1 Boyhood Tuổi thơ và phần 2 Youth Tuổi trẻ, tác phẩm được trình bày hoàn toàn từ điểm nhìn của John Coetzee, ngôi thứ ba, thì hiện tại, tựa hồ những quan sát được thảo ra trong thời gian thực – như thể người kể chuyện đang đồng hành cùng John từ đời sống đến nội tâm, như thể có một phần linh hồn trong John đang tách ra một góc và quan sát chính bản thân mình. Chiều kích thứ hai, bắt đầu với phần 3 Summertime Mùa hè, vẫn với ngôi thứ ba và thì hiện tại, là những trang nhật ký của John, đi kèm ngày tháng và những lời tự vấn, tự nhắc nhở mình. Và chiều kích cuối cùng, cũng trong Mùa hè, dưới hình hài những cuộc phỏng vấn, là các đối thoại song phương và hồi ức – đối thoại về John, hồi ức về John, khi con người ấy không còn ở thế gian.

Nếu cần phải dựa vào một từ ngữ để nắm bắt bản chất tác phẩm khi đọc, ta có thể nhìn nhận Những cảnh đời tỉnh lẻ một cách giản dị là tiểu thuyết tự thuật. Một tiểu thuyết đầy màu sắc tự thuật. J. M. Coetzee vẫn luôn đưa yếu tố tự thuật vào những tác phẩm của mình, nhưng có thể nói phải đến Những cảnh đời tỉnh lẻ, khía cạnh này mới nổi bật hẳn lên, và phô bày đậm đà dấu ấn riêng của tâm hồn tự thuật. Vẫn ngòi bút súc tích, nhưng cảm xúc không còn kìm nén, lời văn không còn dè dặt, như ta từng thấy qua những Disgrace – Ruồng bỏ, Life and Times of Michael K – Cuộc đời và thời đại của Michael K. Tâm hồn ấy phô bày trái tim mình ra khắp trang viết, từ những lý tưởng cao vời, những khát vọng cháy bỏng, đến những bí mật đê hèn, những suy tư nghiệt ngã.

Quý độc giả sẽ dễ dàng thắc mắc: Vì sao Những cảnh đời tỉnh lẻ, một tác phẩm đậm tính tự thuật, lại chuyển hướng ở phần Mùa hè, theo những chiều kích hoàn toàn khác lúc ban đầu? Hẳn là có nhiều hơn một nguyên do đằng sau nghệ thuật kể chuyện ấy, những nguyên do mà chỉ một đôi dòng ở đây không thể nào khai phá hết. Điều quan trọng là, với lối kể ấy, câu chuyện đã vượt hẳn ra ngoài khuôn khổ thế giới của John Coetzee, mở rộng thành một bức tranh hợp từ nhiều mảnh đời, và một lần nữa cho thấy sự đa chiều của nó, ở bình diện tâm lý. Rồi khi những cá tính và số phận đã dự phần vào cuộc đời John phô bày chính mình, ta thấy, bằng cách này hay cách khác, vì lẽ này hay lẽ khác, họ đều là những kẻ dị biệt – hoặc họ đứng ngoài xu thế chung của cộng đồng mình, hoặc họ lạc lõng giữa đất nước mà mình đang sống. Và nổi lên từ câu chuyện của những kẻ dị biệt ấy là đời sống chính trị và xã hội bất ổn của Nam Phi những năm 1940, 1960 và 1970, đất nước Nam Phi mà lúc bấy giờ cũng chính là một quốc gia dị biệt so với phần còn lại của thế giới.

Bằng cách ấy, từ không gian tự thuật hư cấu tưởng chừng riêng tư, J. M. Coetzee khơi mở dần những vấn đề chung của dân tộc, của đất nước, của từng thế giới vi mô mà nhân vật chính và các nhân vật phụ góp mặt vào: thế giới học đường với đòn roi và những kẻ bắt nạt; thế giới nhà nông đầy niềm vui thuần phác lẫn hiện thực tàn nhẫn; thế giới xám xịt của những lập trình viên máy tính; thế giới bấp bênh về đời sống lẫn tâm tư của tuổi trẻ chập chững tìm chỗ đứng cho chính mình; thế giới của những người nhập cư lao đao giữa một nền văn hóa mới… Nam Phi và Anh quốc có thể là những vùng đất xa xôi với chúng ta, độc giả Việt Nam, nhưng những vấn đề của con người mà nhà văn chạm tới, chúng ta có thể nhìn thấy trên chính đất nước mình, xã hội mình, và đôi khi trong đời sống của mình nữa.

Nhờ sự sáng tạo về điểm nhìn và lối kể chuyện, Những cảnh đời tỉnh lẻ không chỉ là một bức tranh tinh tế về đời sống con người, mà còn là một phương thức giúp nhà văn mở lòng hơn, bộc bạch nhiều hơn với thế giới – với những ai quan tâm đến văn chương ông, những ai chưa từng đọc ông, và cả những ai không thích ông vì phong thái khép kín xa cách mà ông thể hiện trong những tác phẩm trước. John, dù là hiện thân bao nhiêu phần trăm của nhà văn, cũng phản chiếu lòng thành thật của một người cầm bút về những niềm tin, mơ ước và góc tối trong chính mình. Không gian tâm lý đa chiều trong tác phẩm, dù có bao nhiêu phần trăm là lấy từ đời thực, cũng phản chiếu ý nguyện nhìn nhận những góc khuất trong tâm hồn và thân phận con người, nhìn nhận sự phức tạp về thế giới quan và hoàn cảnh của mỗi người chúng ta, nhìn nhận sự đa dạng mà hạn chế trong góc nhìn của chúng ta về nhau. Như một nhân vật trong Mùa hè đã nói, “anh nên thận trọng với việc bỏ người ta vào những cái hộp nhỏ hẹp, gọn ghẽ, và dán nhãn lên đó”, J. M. Coetzee có lẽ cũng mong chúng ta thận trọng và đón nhận mọi người quanh mình bằng cái nhìn rộng mở.

Mối duyên của tôi với Những cảnh đời tỉnh lẻ bắt đầu từ nhiều năm trước khi tôi may mắn được dịch nó. Ngay những ngày đầu ấy, khi đọc Mùa hè, tôi đã tìm thấy niềm vui được tận hưởng cái đẹp của lối kể chuyện lạ thường, thẳng thắn, hóm hỉnh, vượt ra ngoài mọi khuôn khổ mình từng biết. Và ngay những ngày đầu ấy, tôi đã thấy mình đồng cảm với John, với thế giới tự thuật hư cấu của tác phẩm – qua những suy nghĩ và cảm xúc, những trải nghiệm đẹp đẽ lẫn đau thương của các nhân vật ấy, tôi nhận ra chính con người mình.

Tôi hy vọng rằng, qua bản dịch này, thế giới tâm lý đa chiều, nghệ thuật kể chuyện tài hoa và những bộc bạch chân tình của J. M. Coetzee cũng sẽ khơi dậy niềm vui, niềm đồng cảm sâu đậm nơi con tim các bạn.

Hương Châu

*

PHẦN 1
TUỔI THƠ

Họ sống trong một khu nhà ở quy hoạch1 nằm ngoài thị trấn Worcester, giữa tuyến đường ray và Quốc lộ. Các con đường trong khu nhà mang tên các loài cây, nhưng chẳng có bóng cây nào. Địa chỉ nhà họ là số 12 Đại lộ Cây Dương. Các nhà trong khu đều mới và giống hệt nhau. Chúng được dựng trên những lô đất sét đỏ rộng rãi, nơi chẳng có gì mọc lên, và được ngăn cách với nhau bằng hàng rào dây thép. Ở sân sau mỗi nhà đều có một căn nhà nhỏ gồm một phòng ở và một buồng vệ sinh. Tuy không có người giúp việc, họ gọi các không gian đó là “phòng người giúp việc” và “phòng vệ sinh của người giúp việc”. Họ lấy phòng người giúp việc làm kho chứa đồ: giấy báo, chai lọ rỗng, một chiếc ghế gãy, một tấm nệm xơ dừa cũ.

Cuối sân, họ bố trí một bãi thả gia cầm với ba con gà mái để lấy trứng. Nhưng lũ gà này chẳng sinh sôi. Nước mưa không thấm được vào bề mặt của đất sét, đọng thành từng vũng trên sân. Bãi gia cầm trở thành một bãi lầy bốc mùi kinh khiếp. Chân cẳng lũ gà sưng phồng lên gớm ghiếc, trông như da voi. Đau ốm, bực dọc, chúng thôi đẻ trứng. Mẹ hắn hỏi ý kiến chị gái bà ở Stellenbosch, và chị gái bà bảo lũ gà sẽ chỉ đẻ trứng lại khi nào lớp màng sừng dưới lưỡi chúng được cắt đi. Thế là mẹ hắn kẹp lần lượt từng con gà một vào giữa hai đầu gối, ấn vào diều chúng cho đến khi chúng há mỏ ra, rồi chọc mũi dao tỉa vào lưỡi chúng. Chúng quang quác và vùng vẫy, mắt lồi cả ra. Hắn rùng mình quay mặt đi. Hắn nghĩ đến cảnh mẹ quẳng thịt hầm lên kệ bếp và cắt miếng thịt thành từng khối vuông; hắn nghĩ đến những ngón tay bết máu của bà.

Các cửa hiệu gần nhất nằm cách nhà một dặm2, trên một con đường hiu quạnh có những hàng cây bạch đàn. Mắc kẹt trong khối nhà hình hộp giữa khu dân cư này, mẹ hắn chẳng có gì để làm cả ngày ngoài việc quét tước, dọn dẹp. Mỗi bận gió thổi, một lớp bụi sét màu hoàng thổ cuộn xoáy qua các khe cửa, len qua những kẽ nứt trên khung cửa sổ, dưới máng xối và những mối nối của trần nhà. Sau một trận bão kéo dài cả ngày, bụi đã phủ cao hàng tấc2 trên mặt tường chính diện.

Họ mua máy hút bụi. Sáng sáng, mẹ hắn kéo rê chiếc máy từ phòng này sang phòng kia, hút mớ bụi vào cái bụng rống ì ầm in hình một con yêu tinh3 đỏ mỉm cười búng mình lên như đang nhảy rào. Sao lại là một con yêu tinh?

Hắn chơi với cái máy hút bụi, xé vụn giấy ra và quan sát những mẩu giấy bay tung lên trước miệng vòi như lá cây trong gió. Hắn chĩa vòi vào một bầy kiến, hút chúng vào trong đến chết.

Ở Worcester có kiến, ruồi, dịch bọ chét. Worcester chỉ cách Cape Town4 chín mươi dặm, nhưng mọi thứ ở đây đều tồi hơn. Chân hắn có một quầng những vết cắn của bọ chét ngay trên rìa tất, và những đốm vảy do hắn gãi mà thành. Có những đêm hắn không ngủ được vì ngứa ngáy. Hắn không hiểu vì sao gia đình hắn phải rời Cape Town.

Mẹ hắn cũng bứt rứt. Bà nói, ước gì tôi có một con ngựa. Ít nhất thì tôi cũng được cưỡi nó dạo chơi trên thảo nguyên. Một con ngựa! Cha hắn thốt lên. Mình muốn làm phu nhân Godiva5 chắc?

Mẹ hắn không mua ngựa. Thay vào đó, chẳng hề báo trước, bà mua một chiếc xe đạp nữ, hàng cũ, sơn đen. Chiếc xe to và nặng đến nỗi khi hắn thử chạy nó trong sân nhà, hắn không vần nổi bàn đạp.

Mẹ hắn không biết chạy xe đạp; có lẽ bà cũng chẳng biết cưỡi ngựa nốt. Bà mua chiếc xe vì cho rằng điều khiển nó cũng đơn giản thôi. Giờ thì bà chẳng tìm được ai có thể dạy mình chạy xe.

Cha hắn không giấu được vẻ hả hê. Ông bảo, phụ nữ không chạy xe đạp. Mẹ hắn vẫn ngang ngạnh. Bà đáp, tôi sẽ không làm tù nhân trong cái nhà này. Tôi sẽ tự do.

Thoạt đầu hắn thấy thật là tuyệt khi mẹ có một chiếc xe đạp của riêng mình. Hắn thậm chí còn hình dung ra cảnh cả ba người, tức mẹ và hai anh em hắn, cùng đạp xe xuống Đại lộ Cây Dương. Nhưng giờ đây, khi nghe những lời bông đùa của cha, những lời mà mẹ chỉ biết đáp lại bằng sự im lặng bướng bỉnh, hắn bắt đầu dao động. Phụ nữ không chạy xe đạp: nếu cha hắn nói đúng thì sao? Nếu mẹ hắn không tìm được ai sẵn lòng dạy bà chạy xe, nếu chẳng bà nội trợ nào khác ở Reunion Park có xe đạp, thì có khi phụ nữ đúng ra không nên chạy xe đạp thật.

Một mình trong sân sau, mẹ hắn nỗ lực tự học cách chạy xe. Bà vươn thẳng chân ra hai bên và đẩy xe lăn bánh xuống con dốc hướng về bãi thả gà. Chiếc xe chao nghiêng và chững lại. Vì xe không có sườn ngang, bà không bị ngã mà chỉ lắc lư lảo đảo một cách ngớ ngẩn trong khi vẫn siết chặt tay lái.

Hắn ngoảnh lòng đi với mẹ. Tối đó, hắn tham gia vào màn nhạo báng của cha. Hắn ý thức rõ về sự phản bội này. Giờ thì mẹ hắn chỉ còn một mình.

Tuy nhiên, bà vẫn tự học được cách chạy xe, dù là chạy loạng choạng không vững, phải gắng gồng để xoay trở bộ giò dĩa nặng nề.

Sáng sáng bà lại khởi hành đi thám hiểm Worcester, khi hắn đã đến trường. Duy chỉ một lần hắn thoáng thấy bà đạp xe qua. Bà mặc áo kiểu trắng và váy sẫm màu. Bà đang đạp về cuối Đại lộ Cây Dương, hướng về nhà. Tóc bà tung bay trong gió. Trông bà trẻ như một thiếu nữ, thanh tân và huyền bí.

Hễ trông thấy chiếc xe đạp đen nặng nề dựa vào vách tường là cha hắn lại giở giọng bông đùa. Trong những câu đùa ấy thường có hình ảnh các công dân Worcester bỏ ngang công việc, đứng hết dậy mà há hốc mồm trước người thiếu phụ vất vả đạp xe qua. Họ gọi ơi ới, chế nhạo bà: Trap! Trap! Đạp đi!6 Những câu đùa chẳng buồn cười tí nào, tuy hắn và cha luôn cùng phá ra cười sau đó. Về phần mẹ, bà không bao giờ đối đáp lại. Bà không giỏi khoản đó. “Cứ cười nếu thích,” bà nói.

Rồi một ngày kia, không lời giải thích, bà thôi chạy xe đạp. Chẳng bao lâu sau chiếc xe biến mất. Chẳng ai nói lời nào, nhưng hắn biết rằng bà đã bị đánh bại, đã bị đặt trở lại vị trí của bà, và rằng hắn phải gánh một phần trách nhiệm. Hắn tự hứa với chính mình: một ngày nào đó mình sẽ đền bù cho mẹ.

Ký ức về mẹ trên chiếc xe đạp không rời khỏi hắn. Bà đạp hướng về đầu Đại lộ Cây Dương, vùng thoát khỏi hắn, vùng thoát về phía khát vọng của riêng bà. Hắn không muốn bà đi. Hắn không muốn bà mang khát vọng cho riêng mình. Hắn muốn bà luôn luôn ở trong ngôi nhà này, đợi chờ hắn khi hắn trở về. Hắn không thường cùng cha lập bè phái để chống lại mẹ: xu hướng chung của hắn là lập bè phái cùng mẹ chống lại cha. Nhưng trong trường hợp này, hắn thuộc về cánh đàn ông.

*

Hắn không sẻ chia gì với mẹ. Hắn giấu kín bưng cuộc sống trường lớp của mình, hắn giấu bà thật kín. Bà sẽ không biết chút gì, hắn quyết vậy, trừ những gì hiện ra trên bản báo cáo học tập hằng quý không tì vết của hắn. Hắn sẽ luôn đứng đầu lớp. Hạnh kiểm của hắn sẽ luôn đạt loại Giỏi, tiến độ của hắn sẽ luôn đạt loại Xuất Sắc. Chừng nào bản báo cáo còn hoàn hảo, bà sẽ không có quyền truy vấn gì. Đó là bản giao kèo hắn tự lập ra trong đầu mình.

Một chuyện xảy ra ở trường là bọn nam sinh bị đánh đòn. Nó xảy ra hằng ngày. Bọn chúng bị bắt khom mình xuống, tay chạm ngón chân, và bị quất roi.

Hắn có đứa bạn học cùng lớp Ba tên Rob Hart, một đứa mà thầy cô đặc biệt thích đánh đòn. Giáo viên lớp Ba là cô Oosthuizen, một phụ nữ dễ kích động với mái tóc nhuộm bằng bột lá móng. Không rõ từ đâu mà cha mẹ hắn biết đến cô dưới cái tên Marie Oosthuizen: cô có tham gia trình diễn trên sân khấu, và chưa từng lấy chồng. Hiển nhiên là cô có cuộc sống bên ngoài trường học, nhưng hắn không hình dung ra nổi. Hắn không hình dung nổi bất kỳ một giáo viên nào có cuộc sống bên ngoài trường học.

Cô Oosthuizen nổi cơn thịnh nộ, gọi Rob Hart ra khỏi chỗ ngồi, bắt cậu ta khom mình, và quất vào mông cậu ta. Những đòn tiếp nối nhau thật nhanh, cái roi gần như không có đủ thời gian để nảy lên nữa. Khi cô Oosthuizen đã đánh xong, mặt Rob Hart đỏ bừng. Nhưng cậu ta không khóc; thật ra thì có khi cậu đỏ mặt chỉ vì phải khom mình. Cô Oosthuizen, trái lại, ngực phập phồng và trông như sắp trào nước mắt – nước mắt cùng những thứ tuôn trào khác nữa.

Sau những đợt phát cuồng vô kiểm soát mê muội này, cả lớp học nín lặng, và cứ thế nín lặng đến lúc chuông reo.

Cô Oosthuizen chẳng bao giờ thành công trong việc làm Rob Hart khóc; có lẽ đó là lý do vì sao cô nổi cơn thịnh nộ với cậu như vậy và đánh cậu mạnh nhường ấy, mạnh hơn bất kỳ ai khác. Rob Hart là đứa con trai lớn tuổi nhất lớp, hơn hắn gần hai tuổi (hắn là đứa nhỏ nhất); hắn có cảm giác giữa Rob Hart và cô Oosthuizen đang diễn ra điều gì đó mà hắn không được phép biết.

Rob Hart cao ráo và điển trai theo kiểu ta-đây-bấtchấp7. Mặc dù Rob Hart không thông minh và có thể còn có nguy cơ ở lại lớp, hắn bị cậu ta cuốn hút. Rob Hart thuộc về một thế giới mà hắn chưa tìm ra cách nào bước chân vào được: thế giới của tình dục và đòn roi.

Về phía hắn, hắn không hề muốn bị cô Oosthuizen hay bất kỳ ai khác đánh đập. Chỉ riêng ý tưởng bị đánh thôi đã khiến hắn quằn quại vì hổ thẹn rồi. Chẳng có gì mà hắn sẽ không làm để bảo vệ mình khỏi cảnh đó. Ở khía cạnh này hắn không bình thường, và hắn biết vậy. Hắn sinh ra trong một gia đình đáng hổ thẹn và không bình thường, trong đó chẳng những trẻ con không bị đánh, mà người lớn còn gọi nhau bằng tên riêng, chẳng ai đi nhà thờ và ngày nào mọi người cũng mang giày.

Mỗi giáo viên ở trường, dù là nam hay nữ, đều có một cái roi và được tự do sử dụng nó. Mỗi cái roi mang một nhân cách, một cá tính, mà đám con trai biết và không ngừng bàn đến. Với tinh thần am hiểu, bọn nó cân đo cá tính của những cái roi và hạng mức đau đớn mà chúng mang lại, so sánh kỹ thuật tay và cổ tay của những vị giáo viên sử dụng chúng. Chẳng ai nói đến nỗi hổ thẹn khi bị gọi lên, bị bắt cúi mình và bị đánh vào mông.

Vì chẳng có kinh nghiệm gì của riêng mình, hắn không tham gia vào những cuộc chuyện trò này được. Tuy nhiên, hắn biết sự đau đớn không phải là điều cần xét đến nhất. Nếu những đứa con trai khác chịu được đau đớn, thì hắn, người có sức mạnh ý chí lớn hơn rất nhiều, cũng chịu được. Thứ mà hắn sẽ không chịu đựng được là sự hổ thẹn. Hắn sợ rằng nỗi hổ thẹn sẽ tồi tệ và làm thoái chí đến mức hắn sẽ bám chặt vào bàn mà từ chối đi lên khi bị gọi. Và chính hành động đó sẽ là một nỗi hổ thẹn lớn hơn nữa: nó sẽ làm hắn bị tách biệt, đặt những đứa con trai khác vào thế chống lại hắn. Nếu có bao giờ hắn bị gọi lên đánh đòn, đó sẽ là một cảnh tượng tủi nhục đến mức hắn sẽ không đời nào quay lại trường học được nữa; và cuối cùng sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi nó ngoài việc tự sát.

Đó chính là mối đe dọa. Đó chính là nguyên do hắn không bao giờ phát ra một tiếng động trong lớp. Đó chính là nguyên do hắn luôn ngăn nắp, luôn hoàn thành bài tập về nhà, luôn biết câu trả lời. Hắn không dám sơ suất. Nếu hắn sơ suất, hắn sẽ có nguy cơ bị đánh đòn; và dù có bị đánh hay có chống cự lại việc bị đánh, thì cũng thế thôi, hắn sẽ chết.

Điều lạ lùng là, chỉ cần một trận đòn thôi thì cái bùa chú kinh hoàng đã và đang kìm kẹp hắn sẽ bị phá vỡ. Hắn ý thức rõ điều này: nếu, bằng cách nào đó, hắn mau mau qua được trận đòn trước khi kịp cứng người lại mà kháng cự, nếu sự xâm phạm thể xác có thể hoàn tất nhanh chóng, bằng vũ lực, hắn sẽ thoát qua phía bên kia như một đứa con trai bình thường, góp mặt dễ dàng vào những cuộc tranh luận về giáo viên và các cây roi của họ cùng các cấp bậc và mùi vị đau đớn đầy phong phú mà chúng khơi ra. Nhưng hắn không thể nào tự mình nhảy qua cái rào cản ấy.

Hắn đổ lỗi cho mẹ vì đã không đánh hắn. Vừa lấy làm mừng rằng mình được mang giày, được mượn sách từ thư viện công cộng và nghỉ học khi bị cảm cúm – tất cả những điều tách biệt hắn khỏi bạn bè – hắn vừa giận mẹ vì đã không sinh ra những đứa con bình thường và đã không bắt chúng sống một cuộc đời bình thường. Cha hắn, nếu cha hắn nắm quyền kiểm soát, sẽ biến gia đình hắn thành bình thường. Cha hắn bình thường trong mọi mặt. Hắn biết ơn mẹ vì đã bảo vệ hắn khỏi sự bình thường của cha, cụ thể là, khỏi những cơn thịnh nộ xanh mắt thi thoảng và những lời đe dọa đánh đập hắn của ông. Đồng thời hắn giận mẹ vì đã biến hắn thành một thứ khác thường, một thứ cần được bảo vệ nếu phải tiếp tục sống.

Trong số những cái roi, cái của cô Oosthuizen không phải là cái cho hắn ấn tượng sâu sắc nhất. Cái dễ sợ nhất là của thầy Lategan dạy nghề mộc. Cái roi của thầy Lategan không dài và mềm dẻo như kiểu hầu hết giáo viên ưa thích. Nó ngắn, dày và mập, giống một cái gậy hay dùi cui hơn là roi. Theo lời đồn thì thầy Lategan chỉ dùng nó đánh bọn nam sinh lớn, rằng nó quá mức chịu đựng đối với đám con trai nhỏ. Theo lời đồn thì với cái roi của mình thầy Lategan đã làm cả những nam sinh trung học năm cuối phải thổn thức, nài nỉ xin tha, tè ra quần và tự bôi nhọ mình.

Thầy Lategan là một người đàn ông thấp bé có mái tóc tỉa sát dựng đứng và bộ ria mép. Thầy bị mất một ngón tay cái: một vết sẹo tím tái lấp gọn vào chỗ cụt ngón. Thầy Lategan ít khi mở miệng nói. Thầy luôn ở trong tâm trạng xa cách, bực bội, như thể việc dạy nghề mộc cho đám con trai nhỏ tuổi là một công việc dưới tầm của thầy mà thầy miễn cưỡng phải làm. Suốt phần lớn buổi học thầy đứng bên cửa sổ nhìn ra vuông sân trong lúc lũ con trai ngập ngừng đo đạc, cưa bào. Thỉnh thoảng thầy cầm cái roi mập bên mình, uể oải gõ lên ống quần trong lúc tư lự. Khi rảo quanh kiểm tra, thầy khinh khỉnh chỉ ra chỗ sai, rồi nhún vai một cái mà đi tiếp.

Bọn nam sinh được phép bông đùa với giáo viên về những cái roi của họ. Trong phạm trù này, những lời trêu ghẹo nhất định dành cho thầy cô được chấp nhận. “Bảo nó hát đi thầy!” Khi bọn trẻ nói thế, thầy Gouws liền vung cổ tay cho cái roi dài (cái roi dài nhất trường, tuy thầy Gouws chỉ là giáo viên lớp Năm) xé gió huýt lên.

Chẳng ai đùa với thầy Lategan. Thầy Lategan được kính sợ vì những gì thầy có thể làm bằng cái roi của mình, với những đứa con trai đã sắp thành đàn ông.

Khi cha hắn cùng anh em tụ tập ở nông trang vào mùa Giáng Sinh, những cuộc chuyện trò luôn xoay về thời học sinh của họ. Họ hồi tưởng về các giáo viên và những cái roi; họ nhớ lại những sáng mùa đông lạnh lẽo, khi cái roi làm nổi lên trên mông họ những lằn xanh tái và cảm giác nhức nhối còn vương vấn mấy ngày liền trong ký ức của da thịt. Lời lẽ của họ toát lên nỗi hoài cảm và nỗi sợ đầy khoan khoái. Hắn nghe say sưa nhưng giữ mình kín đáo hết mức có thể. Hắn không muốn họ quay sang hắn, trong một lúc ngưng nghỉ nào đó giữa cuộc chuyện trò, và hỏi về vị trí của cái roi trong đời hắn. Hắn chưa từng bị đánh, và lấy làm hổ thẹn sâu sắc về điều đó. Hắn không thể nói về những cái roi theo cách dễ dãi, am tường của những người đàn ông này.

Hắn có cảm giác mình bị hư hại. Hắn có cảm giác thứ gì đó, như một bức tường, một lớp màng ngăn, đang chầm chậm rách toạc ra bên trong hắn mọi lúc. Hắn cố giữ mình chắc chắn hết mức để hạn chế vết rách. Để hạn chế vết rách, không phải để ngăn nó lại: chẳng có gì ngăn nó được cả.


Chú thích:

  1. Nguyên văn: housing estate, một khu dân cư quy hoạch chung, gồm các nhà ở xây theo lối đồng bộ. (Tất cả các chú thích từ đây về sau là của người dịch biên soạn lại từ các nguồn tư liệu trên Internet.)
  2. Nguyên văn: mile, đơn vị đo chiều dài của Anh, cũng được sử dụng tại các nước thuộc địa cũ của Anh. Chín mươi dặm bằng xấp xỉ 145km. 2 Nguyên văn: inches, một trong các đơn vị đo lường được thiết lập và sử dụng dưới thời Đế chế Anh, bắt đầu từ năm 1825. Nước Anh từ 1995 đã chuyển sang lấy hệ mét làm hệ đo lường chính, nhưng inch vẫn được sử dụng ở nhiều nơi trên Vương quốc Anh, cũng như ở nhiều nước từng là thuộc địa Anh – cụ thể trong trường hợp này là Nam Phi. Một inch bằng 2,54cm.
  3. Nguyên văn: goblin, loài sinh vật kỳ dị thường xuất hiện trong văn học dân gian châu Âu, thường được mô tả là nhỏ thó, tinh ranh, mê châu báu, có phép thuật.
  4. Thủ đô Nam Phi.
  5. Nữ bá tước sống ở Anh vào thế kỷ 11. Theo một huyền thoại có từ thế kỷ 13, để thuyết phục chồng mình là bá tước Leofric giảm thuế cho người dân Coventry, phu nhân Godiva đã làm theo lời thách thức của chồng: khỏa thân cưỡi ngựa đi qua khắp các con đường của thị trấn.
  6. Trong cuốn sách này, Coetzee có sử dụng một số câu, từ bằng tiếng Afrikaans, một trong các ngôn ngữ chính thức của Nam Phi. Các câu, từ này được in nghiêng, với câu, từ tiếng Anh tương đương đi kèm ngay sau đó. Người dịch giữ nguyên phần tiếng Afrikaans và dịch phần tiếng Anh ra tiếng Việt. Trong trường hợp này, Trap là từ tiếng Afrikaans chỉ hành động ấn bàn đạp xe đạp, đi kèm với từ tiếng Anh “push” (ấn, đẩy) mà ở đây được dịch thoát ý là “Đạp đi!”
  7. Nguyên văn: devil-may-care, chỉ thái độ vô tư và bạt mạng.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng