Trích đăng

Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong mắt người Tây phương

Trích “Người thầy của tỉnh thức & thương yêu”

Published

on

Trích từ: Người thầy của tỉnh thức & thương yêu

Tác giả: Nhiều tác giả

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 1.2020

Chi tiết tác phẩm

Đây là tập hợp một số bài báo trong hàng vạn bài viết về Thiền sư Thích Nhất Hạnh của các cây bút nổi tiếng trên thế giới. Có thể xem cuốn sách này như một tập chân dung về Thiền sư Thích Nhất Hạnh được “ký họa” ở nhiều góc độ khác nhau, dưới con mắt quan sát, qua “cái thấy” của người nước ngoài.

Một điều thú vị là qua những bài viết ở đây, chúng ta phát hiện ra, người phương Tây tìm đến Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ để giãi bày, chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, tìm lại niềm vui sống giữa đời mà họ còn tìm cầu tuệ giác của ông trong việc làm thế nào để điều hành doanh nghiệp tốt hơn, giảm bớt stress, căng thẳng, phát huy nhiều hơn nữa sự sáng tạo, trên cơ sở đó để tăng lợi nhuận. Họ là những CEO của các tập đoàn kinh tế khổng lồ như Google, Yahoo, Ngân hàng Thế giới (World Bank). Họ còn là những thượng nghị sĩ Mỹ, những ngôi sao Hollywood nổi tiếng, những chính khách lừng danh… Qua những cuộc gặp gỡ, trao đổi ấy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chỉ bày cho họ hướng đi tâm linh trong đời sống, trong sự nghiệp cùng những phương pháp thực hành rất cụ thể. Tu tập theo ông, người ta sẽ thấy trí tuệ và lòng từ bi tăng trưởng, nhờ thế mà an lạc thân tâm.

Vị “anh hùng ẩn danh”  đằng sau công cuộc chống biến đổi khí hậu trên thế giới

Jo Confino
(Đăng trên The Huffington Post ngày 22.01.2016)

Một trong những động lực ở hậu trường dẫn dắt vòng đàm phán Paris và đem lại bản thỏa thuận lịch sử về biến đổi khí hậu là vị thiền sư 89 tuổi người Việt Nam.

Christina Figueres, kiến trúc sư trưởng của những cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu tại Paris, đã thừa nhận vai trò then chốt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong việc giúp bà phát triển sức mạnh nội tâm, trí tuệ và lòng từ bi cần thiết để có thể thúc đẩy các bên liên quan đi đến Thỏa thuận Paris – một bản thỏa thuận toàn cầu đầu tiên về biến đổi khí hậu được sự thông qua bởi 196 quốc gia.

Bà Figueres, Tổng thư ký điều hành Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (UNFCCC) nói rằng những lời dạy của Thầy đến với bà một cách rất tình cờ khi bà đang trải qua một cuộc khủng hoảng cá nhân sâu sắc cách đây ba năm. (“Thầy” là cách gọi thân thương mà hàng trăm ngàn đệ tử trên thế giới dành cho Thiền sư Thích Nhất Hạnh.)

Những giáo lý đạo Bụt qua cách diễn bày của Thầy – người hiện đang trong quá trình phục hồi sau một cơn xuất huyết não nghiêm trọng – đã giúp bà đối diện được với những khó khăn của chính mình trong giai đoạn đó, đồng thời giữ được sự định tâm trong các cuộc đàm phán về khí hậu.

“Tôi cần có một cái gì đó ngay trong tầm tay để nương vào, nếu không thì tôi chẳng thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Một điều quá rõ ràng là lúc ấy tôi không có cơ hội để nghỉ ngơi, dù chỉ một ngày. Đó là một cuộc chạy đua kéo dài sáu năm không ngừng, tôi thực sự cần một cái gì đó để nương tựa. Nếu không được dẫn dắt bởi những lời dạy của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tôi đã không thể có được sức mạnh nội tâm, niềm lạc quan sâu sắc, sự tận tâm và niềm cảm hứng mạnh mẽ như vậy”Bà Figueres chia sẻ với phóng viên của The Huffington Post trong thời gian diễn ra Diễn đàn Kinh tế Thế giới thường niên tại Davos, Thụy Sĩ.

Vậy, Thầy đã dạy cho người phụ nữ này điều gì?

Bà Figueres làm sáng tỏ điều đó qua câu chuyện về chuyến thăm của bà tại Viện Phật học Ứng dụng châu Âu (EIAB) do Thầy thành lập, tại Waldbröl, Đức. Nơi đây từng là bệnh viện tâm thần với 700 bệnh nhân cho tới khi Đức Quốc xã (Nazis) xuất hiện, thủ tiêu hoàn toàn những bệnh nhân và biến nơi này thành cơ sở cho Đảng thanh niên Hitler (Hitler Youth).

Bà kể rằng Thầy đã chọn nơi này để thành lập tu viện vì “Thầy muốn chỉ ra rằng chuyển hóa niềm đau thành tình thương, nạn nhân thành người chiến thắng, hận thù thành thương yêu và tha thứ là điều có thể làm được. Thầy muốn điều đó được thực hiện ở ngay chính mảnh đất này, nơi đã từng xảy ra những hành động bạo tàn và phi nhân tính”.

“Việc làm đầu tiên của Thầy là viết thư cho cộng đồng Phật giáo. Trong thư Thầy nói rằng: Thầy muốn có những trái tim được khâu bằng tay, mỗi trái tim dành cho một bệnh nhân bị thủ tiêu, để chúng ta có thể bắt đầu chuyển hóa tòa nhà này, không gian này và năng lượng nơi đây”– bà Figueres chia sẻ tiếp.

“Đó là một câu chuyện vô cùng chấn động đối với tôi. Bởi vì dưới nhiều góc độ, đây chính là hành trình mà chúng tôi đã đi qua để tới được với nhau trong những cuộc đàm phán về khí hậu. Đó là hành trình từ lên án, trách móc lẫn nhau đi tới hợp tác thật sự với nhau. Đó là hành trình từ cảm giác hoàn toàn tê liệt, bất lực, dễ tổn thương đi tới cảm giác thực sự thấy mình có khả năng cùng nhau hành động… Hành trình đó đồng thời đem đến cho tôi rất nhiều trị liệu. Bởi vì ngay chính trong tôi cũng còn có những khó khăn, khổ đau cần được chuyển hóa”. Bà nói thêm: “Chưa thể nói rằng tôi đã đi qua giai đoạn khó khăn của cá nhân mình, nhưng tôi sẽ chuyển hóa nó. Tôi cần làm điều đó cho chính mình.”

Bà tiếp tục chia sẻ: “Tôi cảm nhận đây chính là năng lượng mà những cuộc đàm phán về biến đổi khí hậu cần phải có. Tôi thực sự rất hứng khởi khi được nghe những lời chỉ dạy tuyệt vời như vậy”.

Lần đầu tiên tới cơ sở cũ của Đức Quốc xã, nơi có 400 phòng ở này, Thầy đã viết một bức thư cho những người đã bị giết hại. Lá thư được các thầy, các sư cô sống tại đây đọc lên mỗi ngày:

“Xin hương linh quý vị và các cháu lắng nghe và chứng giám. Bảy mươi năm về trước, người ta đã đối xử rất tệ hại với liệt vị. Nỗi khổ niềm đau rất lớn ấy ít ai thấy được.

Ngày nay tăng thân đã tới, tăng thân đã nghe và đã hiểu tất cả những khổ đau tủi nhục và uất ức ấy. Tăng thân đã đi thiền hành, đã ngồi thiền, đã thở trong chánh niệm, đã trì chú, tụng kinh, thí thực, để cầu ơn trên chư Bụt, chư vị Bồ tát, chư vị Tổ sư để quý Ngài hồi hướng công đức vĩ đại của quý Ngài cho liệt vị và các cháu, để quý vị và các cháu có cơ hội chuyển hóa, tái sinh ra dưới những hình thức mới. Những người đã làm khổ quý vị, họ cũng đã gánh chịu nghiệp quả khổ đau, xin quý vị mở lòng từ bi mà tha thứ cho họ để họ cũng có cơ hội giải thoát và chuyển hóa.

Xin hộ trì cho tăng thân và cho các thế hệ hành giả kế tiếp, để họ có thể biến nơi này thành một cơ sở thực tập chuyển hóa và trị liệu, không những cho thành phố Waldbröl mà cho cả nước Đức và cả toàn thế giới.”

Thầy được coi là cha đẻ của pháp môn thực tập chánh niệm ở phương Tây, là nhà hoạt động môi trường tích cực từ hơn hai thập kỷ qua. Người đã thành lập nhiều trung tâm thiền tập ở khắp nơi và xây dựng nên một tăng thân xuất sĩ có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới. Các nhà lãnh đạo lớn của Mỹ rất kính trọng vị thiền sư này.

Năm ngoái, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim đã mời Thầy tới trụ sở của tổ chức này tại Washington để hướng dẫn một ngày chánh niệm cho các nhân viên của ông. Cuốn sách yêu thích nhất của ông Kim là cuốn Phép lạ của sự tỉnh thức mà Thầy là tác giả. Ông Kim đã ca ngợi sự thực tập của Thầy – vị thiền sư “có sự cảm thông và lòng từ bi sâu sắc đối với những người đau khổ”.

Năm 2013, Google cũng mời Thầy tới thăm Thung lũng Silicon và hướng dẫn một ngày thực tập chánh niệm cho các tổng giám đốc của 15 tập đoàn mạnh nhất trên thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao. Marc Benioff, Giám đốc Điều hành của tập đoàn Salesforce – người khổng lồ của lĩnh vực điện toán đám mây (cloud computing) – đã và đang hỗ trợ rất tích cực quá trình hồi phục sức khỏe sau tai biến của Thầy.

Thầy sống một cuộc đời thật phi thường. Năm 1967, Martin Luther King đề cử Thầy cho giải Nobel Hòa bình vì những cống hiến của Thầy giúp chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trong lí do đề cử của mình, Mục sư Luther King đã tuyên bố: “Tôi không thấy ai xứng đáng nhận giải thưởng Nobel Hòa bình hơn vị thầy tu Việt Nam hiền lành này. Những tư tưởng vì hòa bình của ông, nếu được áp dụng, sẽ tạo nên một tượng đài của tinh thần đại đồng, tình huynh đệ và nhân bản”.

Nguồn: http://www.huffingtonpost.com/entry/ thich-nhat-hanh-paris-climate-agreement_ us_56a24b7ae4b076aadcc64321

*

Ta hạnh phúc liền giây phút này

Claudio Gallo

Ngày 10.9.2014, nhật báo La Stampa – một trong những tờ báo lớn nhất ở Ý – có đăng một bài phỏng vấn Thầy. Claudio Gallo – Biên tập viên phụ trách chuyên mục Văn hóa (Culture Editor) của tờ báo đã tham dự trọn vẹn khóa tu dành cho người Ý được tổ chức tại Làng Mai trong tuần lễ cuối của tháng 8, và anh đã tự mình trải nghiệm được cái gọi là “hiện pháp lạc trú”. Sau đây là bài tường thuật của anh với tựa đề “Happiness is Now” đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt.

Có một cái gì thật dịu ngọt mà cũng thật hùng tráng tỏa ra từ những ruộng nho, những cánh rừng, những đồng cỏ xanh mướt trải dài nối đuôi nhau lướt qua ô cửa sổ của chuyến tàu đi về miền quê nước Pháp, từ Bordeaux đến Bergerac. Đó cũng là sự nhẹ nhàng đầy hùng lực mà ta có thể tìm thấy trong những lời giảng của Thầy Nhất Hạnh. Là một tu sĩ Phật giáo người Việt, Thầy sống với tăng thân của mình tại Làng Mai, một trung tâm tu học tọa lạc trên những ngọn đồi bao quanh ngôi làng Thénac nhỏ bé. Mọi người đều gọi Thầy một cách giản dị là “Thầy” (nghĩa là “một vị thầy tâm linh”).

Thầy đã 88 tuổi, gương mặt trông có vẻ nghiêm khắc nhưng có thể bất ngờ nở một nụ cười trẻ thơ khiến cho ai nhìn thấy cũng phải mỉm cười theo. Năm 1973, Thầy bị chính quyền miền Nam Việt Nam buộc phải lưu vong và Thầy đã chọn Tây phương nơi mà Thầy được Mục sư Martin Luther King và Linh mục Thomas Merton vô cùng trân quý. Ở Mỹ, Thầy cũng được biết đến thông qua các chuyến đi vận động hòa bình cho Việt Nam.

Là tác giả của trên 100 cuốn sách, Thầy đã đem đến cho người Tây phương một phương pháp thực tập dựa trên giáo lý căn bản của đạo Bụt, đó là phương pháp thực tập chánh niệm – sự thực tập tỉnh thức và có mặt một trăm phần trăm cho những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Trong Phật giáo, cùng với đức Đạt Lai Lạt Ma, Thầy có lẽ là vị thầy nổi tiếng nhất trên thế giới với rất nhiều trung tâm tu học ở khắp các châu lục và có số người theo tu học lên đến hàng trăm nghìn người. Điều đáng chú ý là Thầy không đòi hỏi các đệ tử Tây phương phải từ bỏ đạo gốc của mình. Rất nhiều người trong số 700 người Ý tham dự khóa tu vào cuối tháng 8 vừa qua tại Làng Mai là những người theo truyền thống Cơ Đốc giáo.

Thưa Thầy, đạo Bụt có thể cống hiến được gì cho thế hệ kỹ thuật số hiện nay – thế hệ những người trẻ suốt ngày vùi đầu vào internet?

Hiện nay, những người trẻ đã bỏ quá nhiều thì giờ vào internet. Đây là căn bệnh của thời đại chúng ta. Khi ngồi hai tiếng đồng hồ trước máy vi tính, chúng ta hoàn toàn quên là mình có một hình hài. Internet là một phương tiện có khả năng mang lại rất nhiều lợi ích cho con người, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra vô số vấn đề.

Sử dụng internet là một hình thức tiêu thụ. Ta tiêu thụ thông qua những tư tưởng, hình ảnh, âm thanh mà ta tiếp xúc được trên internet và sự tiêu thụ đó có thể lành mạnh hoặc có thể gây tàn hại cho thân tâm ta. Thực tế là chỉ riêng lượng thông tin nhận được qua internet thôi cũng đủ khiến cho nhiều người rơi vào tình trạng quá tải thông tin rồi.

Cũng có nhiều người trong chúng ta trở nên nghiện internet. Ta đánh mất mình trong biển thông tin đó và ta không có mặt cho chính mình, không có mặt cho những người thương của mình và không có mặt cho thiên nhiên. Ta có ảo tưởng là thông qua mạng internet chúng ta có thể nối kết được với nhau, nhưng kỳ thực ta lại càng cảm thấy cô đơn.

Chánh niệm giúp cho ta biết điều độ khi lên mạng, đồng thời cũng giúp cho ta thấy được cái mà ta đang tiếp xúc có thật sự ích lợi hay chỉ làm cho ta càng cô đơn và tuyệt vọng thêm. Ta tiêu thụ internet để khỏa lấp sự cô đơn, nhưng thật ra nó chỉ làm cho tình trạng tệ hại hơn mà thôi. Thường thì khi tiêu thụ những tin tức, quảng cáo, những phim ảnh khêu gợi và kích thích dục tình, ta đồng thời cũng đang đưa vào trong thân tâm ta những độc tố như giận hờn, bạo động, sợ hãi và thèm khát.

Theo đạo Bụt thì cái ta riêng biệt là một ảo tưởng, vậy trong cái thấy đó có còn sự phân biệt giữa thiện và ác hay không?

Trong thế kỷ XX, chủ nghĩa cá nhân được đưa lên vị trí hàng đầu và điều này đã tạo ra rất nhiều khổ đau. Chúng ta tạo ra sự phân biệt, chia cách giữa ta và người, giữa cha và con, giữa con người và thiên nhiên, giữa quốc gia này và quốc gia khác. Chúng ta không ý thức được mối tương quan mật thiết giữa mình với mọi người và mọi loài xung quanh. Đạo Bụt gọi mối liên hệ đó là “tương tức” (“inter-being”).

Cái hiểu, cái thấy sâu sắc về tương tức chính là nền tảng của con đường đạo đức mà đạo Bụt đóng góp cho nhân loại. Những gì xảy ra cho một cá nhân cũng ảnh hưởng tới toàn thể xã hội và cả thế giới. Với cái thấy này, sự thực tập chánh niệm giúp cho ta phân biệt được cái gì thiện, cái gì ác, cái gì đúng, cái gì sai. Có chánh niệm thì ta sẽ nhận ra được những tàn hại đối với các loài gia súc, gia cầm cũng như đối với hành tinh này do ngành công nghiệp sản xuất thịt gây ra. Ý thức được điều đó thì ăn chay là một hành động thương yêu đối với chính mình, đối với sinh môi và đối với trái đất.

Nhiều người trong chúng ta đang chạy theo danh vọng, quyền hành, tiền tài và sắc dục. Chúng ta nghĩ rằng những thứ đó đem lại cho ta hạnh phúc, nhưng thực ra nó có thể dẫn chúng ta đi tới chỗ tàn hoại thân tâm mình. Những người trẻ thường lẫn lộn giữa tình dục và tình yêu chân thật. Trên thực tế thì tình dục có thể hủy hoại tình yêu và đưa tới sự thèm khát, cô đơn và tuyệt vọng nhiều hơn. Sự thực tập chánh niệm giúp chúng ta mỗi ngày hiểu sâu hơn về người mà ta thương. Cái hiểu chính là nền tảng của tình thương đích thực. Chúng ta không thể nào có được một tình thương đích thực nếu ta không hiểu được người mình thương.

Có thể vượt thoát sự sợ hãi về cái chết hay không?

Gốc rễ của sự sợ hãi nằm ở cái thấy sai lạc của ta về bản chất cái chết. Ta sợ hãi cái chết tại vì ta nghĩ rằng khi chết rồi thì ta sẽ trở thành không. Khoa học hiện đại đã chứng minh cho ta thấy rằng: Không có gì sinh cũng không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến không ngừng.

Quan sát một đám mây, ta có thể đặt câu hỏi: Đám mây có thể chết không? Đám mây có thể từ mà trở thành không? Nhìn cho sâu ta thấy đám mây có thể trở thành mưa, thành tuyết, thành mưa đá, rồi thành hơi nước trở lại. Bản chất của chúng ta cũng giống như bản chất của đám mây. Cũng như mưa, tuyết là sự tiếp nối của đám mây thì những hành động, lời nói và tư tưởng mà ta chế tác ra chính là sự tiếp nối của ta.

Chúng ta sống trong một thế giới đầy xung đột và bất công xã hội. Làm sao ta có thể cải thiện được tình trạng đó với tư cách một Phật tử?

Sự xung đột và bất công trong xã hội phát sinh ra từ tâm chúng ta. Đạo Bụt cống hiến cho chúng ta những phương pháp thực tập cụ thể để nuôi dưỡng tình thương và hạnh phúc đích thực. Khi tình thương và hạnh phúc có mặt thì ta có thể tạo ra sự bình an trong tự thân và góp phần vào hòa bình trên thế giới. Khi tâm ta bị cuốn đi bởi tham vọng và sợ hãi thì bất công xã hội và bạo động sẽ phát sinh. Sự thực tập chánh niệm giúp cho ta nuôi lớn hạnh phúc và bình an trong giây phút hiện tại. Và đây chính là sự đóng góp tuyệt vời cho nền hòa bình thế giới và cũng đồng thời là nền tảng để chúng ta có thể làm tốt những công tác phụng sự cho xã hội.

Thầy dạy cho mọi người về sự thực tập chánh niệm và chánh định, thế nhưng một tình trạng đáng lo ngại của thế giới hiện nay là tình trạng suy giảm khả năng tập trung của con người…

Nhiều người trong chúng ta không biết làm thế nào để thật sự có mặt cho người mình thương và cho những mầu nhiệm đang có sẵn trong giây phút hiện tại. Tâm của ta rất dễ bị phân tán. Trong khi đó, thị trường bên ngoài không ngừng cung cấp cho ta những phương tiện để giữ cho tâm ta luôn ở trong tình trạng này. Thân của ta ở đây mà tâm của ta thì đang chạy theo những dự án ở tương lai, những sầu đau của quá khứ hay những lo lắng, buồn phiền trong hiện tại.

Cách đây không lâu, chúng tôi được mời hướng dẫn thực tập chánh niệm cho hơn 700 nhân viên Google tại trụ sở chính của tập đoàn này ở California. Điều đầu tiên mà chúng tôi chia sẻ là sự thực tập dừng lại, vì trong xã hội hiện nay chúng ta luôn có thói quen rong ruổi, tìm cầu. Khi ta có khả năng dừng lại, ta có thể nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân và trong tâm mình. Đây là cách thức để ta có thể bắt đầu chăm sóc cho chính mình. Chúng ta đã có quá đủ những điều kiện để hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ cần dừng lại và nhận diện những điều kiện hạnh phúc đang có mặt là ta có thể tiếp xúc được ngay với hạnh phúc đích thực.

Nguồn: http://plumvillage.org/news/an-italian- journalist-reports-from-plum-village/

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Click to comment

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Trích đăng

Ngoài Covid, còn có những cuộc khủng hoảng thầm lặng khác

Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao?

Published

on

By

Trích từ: Hãy cùng ước mơ
Tác giả: Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 10.2022

Tôi thấy thời đại này giống như một cuộc tính sổ. Nó khiến tôi nghĩ tới điều mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô trong Phúc Âm Luca (Lc 22,31) – ma quỷ muốn sàng ông như sàng gạo. Bước vào cuộc khủng hoảng là để cho bản thân được sàng lọc. Các phạm trù và cách suy nghĩ của bạn bị lung lay, các giá trị ưu tiên và phong cách sống của bạn bị thách thức. Bạn bước qua một ngưỡng cửa, hoặc là do chính bạn chọn lựa, hoặc do hoàn cảnh đòi buộc; vì sẽ có những cuộc khủng hoảng, như những gì chúng ta đang phải trải qua đây, mà bạn không cách chi né tránh được.

Câu hỏi được đặt ra là liệu bạn có vượt qua cơn khủng hoảng này không, và nếu có thể, thì bằng cách nào? Quy luật cơ bản của một cuộc khủng hoảng là bạn sẽ không thoát khỏi nó mà không thay đổi gì. Khi bạn vượt qua thách đố, bạn hoặc sẽ trở nên tốt hơn hoặc là tệ đi; nhưng chắc chắn sẽ không còn là con người cũ nữa.

Chúng ta đang sống trong thời đại đầy những thử thách. Kinh Thánh nói về việc băng qua lửa để mô tả những thử thách như thế, có thử lửa mới biết bình thợ gốm (Hc 27,5). Chúng ta sẽ luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, nhờ đó mà ta được lớn lên.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Các thử thách trong cuộc sống sẽ giúp bạn bộc lộ trái tim mình: Trái tim bạn vững chãi thế nào, biết thương xót ra sao, và nó lớn hay nhỏ. Thường thường, trong những cảnh huống xã hội bình thường, bạn chẳng khi nào bộc lộ bản thân. Bạn cười, bạn nói những điều đúng đắn, và bạn bình an vô sự vượt qua các tình huống mà không phải thể hiện mình như chính-bạn-là. Nhưng khi bước vào khủng hoảng thì hoàn toàn trái ngược. Bạn phải chọn lựa. Và trong quá trình chọn lựa, bạn bộc lộ trái tim mình.

Hãy nghĩ về những gì xảy ra trong lịch sử. Khi trái tim bị thử thách, con người ta trở nên ý thức về điều khiến họ chùn bước. Họ cũng cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng Trung Tín và hằng đáp lại tiếng than khóc của dân Người. Cuộc gặp gỡ sau đó mở ra một tương lai mới.

Hãy nghĩ về những gì chúng ta thấy trong đại dịch Covid-19. Kìa các vị tử đạo: Những người nam người nữ đã hy sinh mạng sống mình để phục vụ những ai cần họ nhất. Hãy nghĩ tới các nhân viên y tế, các y bác sĩ, những người chăm sóc, cũng như các vị tuyên úy và tất cả những ai đã chọn đồng hành với người khác trong nỗi đau của họ. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa cần thiết, họ tìm cách hỗ trợ và an ủi người khác. Họ là chứng nhân của tình thân và sự dịu dàng. Đau lòng thay, nhiều người trong số họ đã ra đi. Để tôn vinh những gì họ đã làm chứng và nỗi đau của biết bao người, chúng ta phải xây dựng ngày mai bằng cách đi theo con đường mà họ đã thắp sáng.

Tuy nhiên – tôi nói điều này trong đau đớn và xấu hổ chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người cho vay nóng, cho vay nặng lãi, kẻ đã xuất hiện trước cửa nhà của những người đang tuyệt vọng. Giả như họ có đưa tay ra thì cũng là để cho vay những khoản tiền không thể nào trả nổi, và những ai chấp nhận đề nghị đó cuối cùng sẽ trở thành con nợ vĩnh viễn. Đây là những người làm giàu trên nỗi khốn cùng của người khác.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Trong thời điểm khủng hoảng, bạn sẽ bắt gặp cả điều tốt lẫn điều xấu: Người ta bộc lộ mình như chính-họ-là. Có những người quên mình phục vụ kẻ khó nghèo, cũng có những người làm giàu trên nỗi đau của người khác. Có những người bước ra để đến với tha nhân – bằng những cách thức mới đầy sáng tạo mà không cần rời khỏi nhà – trong khi số khác lại rút lui phía sau tấm áo phòng bị. Trái tim của ta vì thế mà tỏ lộ.

Không chỉ một vài cá nhân nào đó bị thử thách, mà là toàn thể nhân loại. Hãy nghĩ đến việc các chính phủ phải đưa ra chọn lựa trong đại dịch. Điều gì quan trọng hơn: Chăm sóc con người hay đảm bảo sự vận hành của hệ thống tài chính? Chăm lo cho người dân, hay thí mạng họ để đảm bảo lợi ích của thị trường chứng khoán? Tạm ngưng cỗ máy thịnh vượng, dù biết rằng điều này có thể ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng phải chăng đó cũng chính là cách chúng ta có thể cứu sống nhiều mảnh đời? Có những trường hợp, chính phủ chọn bảo vệ nền kinh tế trước, có thể vì họ đã không hiểu mức độ trầm trọng của dịch bệnh, hoặc do họ thiếu nguồn lực. Những chính quyền này đã “thế chấp” người dân của họ. Khi chọn lựa như thế, thứ tự ưu tiên của họ bị thử thách và giá trị thật của họ cũng bị phơi bày.

Trong cơn khủng hoảng, luôn có điều cám dỗ ta rút lui. Tất nhiên, có những lúc chúng ta cần phải lùi lại vì lý do chiến thuật – như trong Kinh Thánh đề cập: “Rồi Israel rút về lều” (1 V 12,16) - nhưng có những tình huống mà rút lui không phải việc đúng đắn và cũng chẳng nhân văn. Chúa Giêsu đã làm rõ điều này trong dụ ngôn về người Samari nhân hậu. Khi thầy Lêvi và thầy tư tế bỏ lại người đàn ông bê bết máu vì bị băng cướp đánh nhừ tử, họ đang rút lui “theo chức năng”. Một hành động tuy hợp lý và đúng luật dạy, nhưng chẳng hợp tình người. Khi gặp thách đố, điều họ cố gắng bảo vệ là địa vị, vai trò và hình tượng của bản thân, chứ không phải vì người khác.

Trong một cuộc khủng hoảng, chủ nghĩa chức năng của ta bị lung lay, đó là lý do ta phải xem lại cũng như điều chỉnh vai trò và thói quen để biến mình thành những người tử tế hơn. Một cuộc khủng hoảng luôn đòi buộc toàn thể con người ta hiện diện, không cho phép ta thoái lui hay trở về với những đường lối và vai trò cũ. Hãy nghĩ về người Samari: Anh ta đã dừng lại, nâng đỡ người gặp nạn, đã hành động và bước vào thế giới của nạn nhân, đã đặt mình vào tình huống để chia sớt đau khổ với nạn nhân, rồi từ đó, tạo nên một tương lai mới.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Hành động theo cách của người Samari trong cơn khủng hoảng nghĩa là để cho bản thân được tác động bởi những gì mà ta nhìn thấy, với ý thức rằng những khổ đau này sẽ biến đổi cuộc đời ta. Chúng ta, những người Kitô hữu, nói về điều này như là đón nhận và ôm lấy thập giá Đức Kitô. Với niềm xác tín rằng những gì sẽ xảy đến là cuộc sống mới, việc ôm lấy thập giá cho chúng ta can đảm để ngừng than vãn và dũng khí để ra đi phục vụ. Từ đó, chúng ta được biến đổi, và sự biến đổi này chỉ đến từ lòng trắc ẩn và sự phục vụ quên mình.

Một số người đáp lại những khổ đau mà cơn khủng hoảng đem đến chỉ bằng cái nhún vai. Họ nói, “Thượng đế đã tạo dựng thế giới như thế, bản chất nó là vậy rồi”. Nhưng, nhìn nhận như thế là đã hiểu sai về công trình sáng tạo của Thiên Chúa, bởi đây là một tiến trình năng động, không phải tĩnh tại. Thế giới vẫn luôn được tạo dựng. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã nói: Muôn loài thụ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở (Rm 8,22). Thiên Chúa muốn cùng chúng ta, các cộng sự của Ngài, không ngừng dựng xây thế giới. Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài ngay từ thuở ban đầu, trong mọi lúc, cả những thời khắc bình yên hay trong cơn khủng hoảng. Thiên Chúa không trao thế giới cho ta như một món đồ đã được đóng gói và niêm phong, rồi nói rằng: “Thế giới đây, hãy đón nhận”.

Trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), Thiên Chúa ra lệnh cho Adam và Eva sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Nhân loại có nhiệm vụ thay đổi, xây dựng, làm chủ công trình sáng tạo theo nghĩa tích cực: sáng tạo từ nó và cùng với nó. Vì vậy, những gì sắp xảy đến không phụ thuộc vào các cơ chế vô hình hay một tương lai mà nhân loại chỉ là khán giả thụ động. Không, chúng ta là nhân vật chính, hay cụ thể hơn, là những người đồng sáng tạo. Khi Chúa bảo chúng ta ra đi và sinh sôi nảy nở để làm chủ Trái Đất, Ngài đang nói: Hãy là những người kiến tạo tương lai của chính mình.

Từ cuộc khủng hoảng này, chúng ta có thể trở nên tốt hơn hoặc tệ đi. Ta có thể trượt dài về sau, hoặc có thể tạo ra điều gì đó mới mẻ. Hiện tại, điều ta cần là cơ hội để thay đổi và tạo không gian cho những điều mới. Điều này tương tự điều Chúa phán với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Nếu con sẵn sàng lắng nghe, chúng ta sẽ có một tương lai tuyệt vời. Nhưng nếu con từ chối lắng nghe, con sẽ bị ăn gươm giáo (Is 1, 18-20).

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Có rất nhiều lưỡi gươm đang hòng tiêu diệt chúng ta.
Cuộc khủng hoảng Covid trông có vẻ đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, nhưng nó chỉ đặc biệt vì ta có thể nhìn thấy được. Trong khi có hàng ngàn cuộc khủng hoảng khác cũng thảm khốc không kém, nhưng đủ khuất tầm nhìn để nhiều người vờ như chúng chẳng hề hiện hữu. Chẳng hạn, hãy nghĩ về những cuộc chiến tranh diễn ra đó đây trên thế giới; về việc sản xuất và buôn bán vũ khí; về hàng trăm ngàn người tị nạn đang chạy trốn khỏi sự đói nghèo, thiếu thốn cơ hội; và cả biến đổi khí hậu. Những bi kịch này có vẻ xa vời với chúng ta, chúng chỉ là một phần của tin tức hằng ngày, và đáng buồn thay, nó không đủ sức để thúc đẩy ta thay đổi lịch trình và giá trị ưu tiên. Nhưng cũng như đại dịch Covid, những khủng hoảng này tác động đến toàn nhân loại.

Chỉ cần nhìn những con số trong ngân sách mà một quốc gia chi cho việc trang bị vũ khí thôi cũng đủ làm bạn lạnh người. Rồi hãy so sánh các số liệu trên với số liệu thống kê của UNICEF về số trẻ em không được đến trường, phải lên giường với cái bụng đói, khi đó, bạn sẽ hiểu được ai đang phải trả giá cho việc trang bị vũ khí. Trong bốn tháng đầu năm nay, có đến 3,7 triệu người chết vì đói. Và có bao nhiêu người chết vì chiến tranh? Chi phí quân sự hủy diệt loài người. Có thể nói đây là một chủng vi rút corona đáng sợ, nhưng vì không nhìn thấy các nạn nhân của nó nên chúng ta chẳng mấy để tâm.

Tương tự vậy, một số người không nhìn thấy được thế giới tự nhiên đang bị tàn phá. Chúng ta nghĩ rằng điều này sẽ không ảnh hưởng tới mình vì nó xảy ra tận đấu tận đâu. Nhưng rồi đột nhiên ta nhìn thấy, ta hiểu được: Một chiếc thuyền băng qua Bắc Cực lần đầu tiên, và ta nhận ra rằng những trận lũ lụt và cháy rừng ở đâu xa lại là một phần của cuộc khủng hoảng chung mà tất cả chúng ta đều phải đối mặt.

Hãy nhìn chúng ta lúc này: Ta mang khẩu trang để bảo vệ chính mình và người khác khỏi một con vi rút mà ta không thấy được. Nhưng còn tất cả những con vi rút vô hình khác mà ta cũng cần tránh thì sao? Chúng ta sẽ phải đối phó với những đại dịch tiềm ẩn của thế giới này bằng cách nào – đại dịch của đói nghèo, bạo lực và biến đổi khí hậu?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Nếu muốn bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này và bớt ích kỷ hơn so với khi bước vào, hãy để cho bản thân được lay động bởi nỗi đau của người khác. “Nơi nào có hiểm nguy, nơi đó cũng trổ sinh nguồn năng lượng cứu rỗi”. Câu thơ trong tác phẩm Hyperion của Friedrich Hölderlin như muốn nói với tôi rằng những hiểm nguy đe dọa chúng ta trong một cuộc khủng hoảng không phải là tất cả; luôn luôn có một lối ra. Đó chính là nguồn cảm hứng trong câu chuyện của loài người: Luôn có cách để ta thoát khỏi sự suy tàn. Con người phải hành động ngay trong chính những thách thức, cũng là nơi mà cánh cửa được mở ra. Câu nói ấy đã đồng hành với tôi trong nhiều thời điểm khác nhau của cuộc sống.

Đây là thời điểm để ta mơ lớn, để suy nghĩ lại các giá trị ưu tiên, những điều ta coi trọng, mong muốn và kiếm tìm, và cũng để cam kết hành động trong mỗi ngày sống vì những điều ta mơ ước. Điều tôi nghe được lúc này cũng giống những gì Thiên Chúa đã nói với tiên tri Isaia: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

Thiên Chúa mời gọi ta dám sáng tạo những điều mới lạ. Chúng ta không thể trở về tình trạng tưởng chừng như yên ổn của hệ thống chính trị và kinh tế trước khủng hoảng. Chúng ta cần những nền kinh tế cho phép mọi người tiếp cận với thành quả của công trình sáng tạo cùng những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống: đất đai, nhà ở và công việc. Chúng ta cần những nền chính trị có thể hòa nhập và đối thoại với người nghèo, những người bị loại trừ và dễ bị tổn thương, giúp họ có tiếng nói trong các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. Chúng ta cần chậm lại, cân nhắc và thiết kế ra cách thức tốt hơn để có thể cùng nhau sống trên mặt đất này.

Đó là nhiệm vụ mà từng người chúng ta được mời gọi để cộng tác. Nhưng đây là thời điểm đặc biệt dành cho những con tim thao thức, sự thao thức lành mạnh thôi thúc ta hành động. Hơn bao giờ hết, các lý lẽ ngụy biện cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguyên lý vận hành xã hội đang bị phơi bày. Vậy đâu sẽ là nguyên tắc mới của chúng ta?

Chúng ta cần một nhóm những người biết rằng chúng ta cần nhau, những người có tinh thần trách nhiệm với người khác và với thế giới. Chúng ta cần cho thấy rằng việc sống tử tế, có niềm tin, và làm việc vì lợi ích chung là những mục tiêu tuyệt vời – điều đòi hỏi nơi ta lòng can đảm và nghị lực; trong khi sự hào nhoáng hời hợt và nhạo báng đời sống đạo đức chẳng giúp ích gì. Kỷ nguyên hiện đại, vốn đã phát huy sự bình đẳng và tự do như một xác quyết, giờ đây cần phải tập trung vào tình anh em bạn hữu với cùng chí hướng và sự bền bỉ để đương đầu với các thử thách phía trước. Tình anh em bạn hữu sẽ tạo điều kiện cho bình đẳng và tự do chiếm vị trí tương xứng trong bản giao hưởng cuộc sống.

Hàng triệu người đã tự hỏi mình và người khác rằng họ có thể tìm thấy Thiên Chúa ở đâu trong cuộc khủng hoảng này. Những gì hiện lên trong tâm trí tôi là sự đầy tràn. Tôi nghĩ tới những dòng sông lớn nhẹ nhàng vỗ bờ, một cách chậm rãi đến độ bạn khó lòng nhận ra, nhưng đến đúng thời điểm, chúng vỡ bờ và tràn ra. Trong xã hội chúng ta, lòng thương xót của Chúa cũng tuôn tràn như “thời khắc vỡ bờ”: Bùng nổ, phá vỡ mọi giới hạn truyền thống vốn cản trở nhiều người khỏi những gì họ xứng đáng được nhận, làm lung lay vai trò và cách suy nghĩ của ta. Sự đầy tràn ân sủng được tìm thấy nơi những đau khổ mà cuộc khủng hoảng này đã phơi bày, và trong cách đáp trả sáng tạo của hàng bao người.

Tôi thấy có rất nhiều tình thương chảy tràn giữa chúng ta. Nhiều con tim đã và đang phải chịu các thách đố. Cuộc khủng hoảng đã khơi dậy nơi nhiều người sự can đảm và lòng trắc ẩn mới. Một vài người trong số đó khi bị thách đố sàng lọc, đã đáp lại bằng khát khao kiến tạo lại thế giới; số khác thì quyết định giúp người thân cận đang gặp túng thiếu bằng các hành động thiết thực để họ có thể vượt qua nỗi đau.

Tôi tràn ngập hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên tốt hơn khi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng này. Nhưng để làm được như thế, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, lựa chọn sáng suốt và hành động đúng đắn.

Hãy cùng nói về cách thức để làm điều đó. Hãy để cho lời Chúa phán với tiên tri Isaia cũng vang vọng trong ta: Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận! Chúng ta hãy dám ước mơ.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu?

Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Có nhiều cách hiểu từ ảo tưởng. Xã hội không chấp nhận bất kỳ ai có ảo tưởng rằng những cá thể khác không quan trọng; chúng ta gọi đây là thói tự đại hoặc duy ngã. Nhưng ảo tưởng rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, niềm tin mà con người rất dễ lậm vào nếu đang say sưa trong men tình, là loại ảo tưởng ai cũng sẵn lòng sa chân. Vậy nên thật đau đớn khi tình yêu tan vỡ, nghĩa là mang hiện thực đến thế chỗ cho ảo tưởng.

Sự pha trộn giữa niềm vui và đau khổ tạo nên đặc trưng tiêu biểu của “Tôi”. Ở mặt tích cực, việc khám phá ra danh tính bản thân có thể khiến trẻ con vui sướng tột cùng. Nhưng chẳng lâu sau, “khủng hoảng tuổi lên hai” sẽ bắt đầu phô bày những dấu hiệu vị kỷ, khi trẻ biết khẳng định với thế giới, “Đây là tôi! Chú ý vào nhé. Tôi ở đây này!” Khủng hoảng tuổi lên hai là giai đoạn thách thức với các bậc cha mẹ bởi lối đòi hỏi vô lối của bản ngã, rất đáng ghét. Trên hết, hành vi này không thực tế. Bạn không thể tồn tại trong xã hội mà cứ đòi thế giới phải thường xuyên xoay quanh mình, thậm chí luôn luôn xoay quanh mình. Cuộc sống trưởng thành là thỏa hiệp giữa việc được làm những điều bạn muốn và tuân theo chuẩn mực chung của xã hội, giữa cái “Tôi” là trung tâm vũ trụ và cái “Tôi” chỉ như một mắt xích nhỏ nhoi trong guồng máy xã hội khổng lồ. Sự cân bằng rất khó đạt được, và vô số người đã rơi thẳng vào cái bẫy mặc cảm cá nhân, trong khi số ít còn lại giành quyền bước lên đàn áp luật chơi.

Các nhà tâm lý học dành cả sự nghiệp để chữa lành những cảm xúc bị hư hại của con người về Cái Tôi, nhưng trên hành trình siêu nhân, chúng ta phải đặt ra một câu hỏi cấp tiến hơn: Tại sao “Tôi” phải tồn tại ngay từ đầu? “Tôi” vẽ ra một cuộc đời sướng – khổ không thể tiên liệu. “Tôi” cách ly chúng ta khỏi thế giới và hạn chế những điều ta có thể cảm nhận, suy nghĩ, phát ngôn và hành động. Có phải chúng ta thường ngăn mình làm những chuyện bốc đồng bởi ý nghĩ tự động này – “Tôi không phải loại người làm chuyện X”? Chuyện X có thể là bất cứ gì, từ một trò chơi khăm vui vẻ đến phô trương thu nhập hay bỏ việc để đầu quân cho rạp xiếc. Mọi hạn chế do “Tôi” áp đặt đều vô nghĩa. Khuôn mẫu đó chỉ có ích cho những điều kiện xã hội đã lỗi thời. Khi chúng ta nhận ra “Tôi” chỉ là một mô hình tinh thần – và còn là một mô hình rất rung lắc – con đường thay đổi sẽ rộng mở. Một khi mô hình này mất đi sức mạnh cố hữu, chúng ta có thể quyết định hành động mà không còn phụ thuộc vào “Tôi”.

“Tôi” tồn tại để thuyết phục bạn rằng bạn là tạo vật của bầu thực tế ảo này, và việc vượt lên khỏi môi trường mô phỏng là không tưởng, cũng như một tấm ảnh không thể nhảy ra khỏi cái khung chứa nó được. Nguyên nhân khiến con người vướng víu trong ảo ảnh là vì chúng ta bị cái “Tôi” cùng mọi thứ “Tôi” đại diện trói chặt. Có rất nhiều việc phải làm để “Tôi” ngừng chi phối cuộc đời con người. Từ những ký ức đầu tiên của chúng ta về bản thân, “Tôi” đã là người bạn đồng hành thân cận nhất, và “Tôi” dành mọi khoảnh khắc tỉnh táo để bám lấy những trải nghiệm nó cho là đáng mơ ước, đồng thời loại bỏ các trải nghiệm khó chịu. “Tôi” không muốn từ bỏ sức mạnh chi phối chúng ta, vì lý do chính đáng. Có ai đó đặc biệt yêu thương bạn và chỉ riêng bạn khiến cuộc đời đáng sống hơn. Khi “Tôi” phai mờ, còn ai để ta yêu và được yêu nữa? Nhưng đó không phải nguy cơ duy nhất. Mọi điều con người suy nghĩ, phát ngôn và hành động đều nhằm mục đích khiến “Tôi” mạnh mẽ hơn, hạnh phúc hơn và tốt đẹp hơn. Vậy thì hành trình siêu nhân không thể thành công nếu không mang lại cho chúng ta những giá trị viên mãn hơn điều mà cái “Tôi” đang làm.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Ảo tưởng giữa đời thường

Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.

Published

on

By

Trích từ: Metahuman – Siêu Nhân Loại
Tác giả: Deepak Chopra
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2022

Ai cũng đồng ý sống chân chạm đất tốt hơn là mơ mộng. Vậy nên hẳn sẽ là cú sốc với bạn nếu vỡ lẽ ra rằng bấy lâu nay mình vẫn sống trong ảo mộng. Bạn đã bám víu lấy khối ảo ảnh ấy ngay từ thời thơ ấu. Đến cả những người thực tế, lý trí nhất cũng thường xuyên đắm chìm trong ảo mộng. Tôi không chỉ bàn tới những ảo vọng hoang đường hay tưởng tượng dục tình, hoặc giấc mơ trở thành tỷ phú sau một đêm. Chẳng có gì bạn thấy thực chất như vậy cả. Tất cả đều là ảo ảnh từ chân tới đầu. Lấy điện thoại của bạn ra và xem bất cứ hình ảnh nào mới được lưu đi. Bức ảnh có chiều ngang vài centimet, bất kể là ảnh chụp Grand Canyon, con chuột hay vi trùng. Mắt bạn vẫn cách màn hình điện thoại một khoảng như nhau, nhưng bạn nhận biết Grand Canyon, con chuột và vi trùng với những kích thước hoàn toàn khác biệt. Bằng cách nào chúng ta có thể tự động điều chỉnh kích thước của hình ảnh trên màn hình vậy? Chẳng ai trả lời được, và tình hình càng bí ẩn hơn nếu bạn nhớ ra rằng võng mạc phía sau nhãn cầu là mặt cong và ảnh chiếu lên đó còn bị lộn ngược. Tại sao thế giới quanh ta lại không bị bóp méo như trong nhà gương cười? Bạn có thể nhún vai mà đẩy hết bí mật cho não bộ, cơ quan nhào nặn dữ liệu thô từ mắt và tạo thành bức tranh thế giới thực cho ta. Nhưng làm thế chỉ càng khiến ảo ảnh ăn sâu hơn. Khi nói mắt phản ứng với “ánh sáng thấy được”, ta đã bỏ qua sự thực là các hạt cơ bản của ánh sáng – photon – vốn không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Photon không có độ sáng, độ bóng, màu sắc hay bất kỳ đặc tính nào liên hệ tới ánh sáng. Giống như bộ đếm Geiger nháy đèn liên tục khi phát hiện mức phóng xạ cao và ngược lại, võng mạc cũng “nhấp nháy” liên tục khi hàng triệu photon kích hoạt các tế bào nón và que trong nó, nếu mức sáng giảm xuống (tức là chuyển thành tối) sẽ nháy thưa dần đi. Dù sao thì mọi hình ảnh bạn nghĩ mình nhìn thấy đều đã được xử lý trong não, ở một vùng cụ thể có tên là vỏ não thị giác, nơi hoàn toàn tối. Một bóng đèn chớp làm chói mắt bạn khi đi vào não cũng tối như ánh mờ của những ngôi sao trên trời đêm mà thôi. Các tín hiệu truyền đến vỏ não thị giác không tạo ra hình ảnh, chưa nói tới ảnh 3-D. Bức ảnh bạn ghi lại để hình dung về thế giới thực ra là do não bạn thêu dệt nên. Tương tự, bốn giác quan còn lại cũng chỉ là những “nhấp nháy” trên bề mặt của các tế bào khác. Không ai giải thích được tại sao các dây thần kinh trong mũi lại biến sự bùng nổ của những phân tử đang trôi nổi thành hoa hồng thơm hay đống rác thối. Toàn bộ thế giới ba chiều được thiết lập bằng một ẩn số ma thuật, nhưng đó chắc chắn không phải là khung cảnh thật của hiện thực. Tất cả đều là sản phẩm của tâm trí.

Một nhà khoa học thần kinh sẽ chỉnh đốn tôi, khẳng định thế giới chúng ta nhận thức là sản phẩm của não bộ mới đúng. Song chỉ một vài ví dụ đơn giản cũng có thể lật đổ luận điểm ấy. Theo cơ chế của não bộ, những ký tự trên trang sách này chỉ là đốm đen, không khác gì mấy đốm mực bạn chấm đại ra bằng cọ vẽ. Trước khi bạn học đọc bảng chữ cái, các ký tự chỉ là những đốm đen vô nghĩa, chỉ khi bạn học xong chúng mới trở nên có ý nghĩa. Tuy nhiên về mặt xử lý thông tin, bộ não bạn hiện nay vẫn y như từ lúc ba tuổi trở đi. Tâm trí ta học cách đọc chữ, không phải bộ não. Tương tự vậy, bất cứ điều gì bạn thấy xung quanh – một cây du, thanh chocolate Bỉ, nhà thờ hay nghĩa trang – đều có ý nghĩa là bởi tâm trí đã gán ý nghĩa cho chúng. Một ví dụ khác: Khi trẻ em mù bẩm sinh được trị liệu y tế để có thể nhìn, các em sẽ lúng túng trước những điều mà chúng ta thấy bình thường. Kích thước con bò đằng xa ngang với một con mèo sát bên. Cầu thang trông như được vẽ trên tường; cái bóng là một mảng đen huyền bí cứ bám theo các em khắp nơi. Điều mà trẻ mù bẩm sinh đã bỏ lỡ – và cần bắt kịp – là đường cong lĩnh hội (the learning curve) mà ai ai cũng phải học để định hình hiện thực đời thường. (Thế giới hữu hình gây khó chịu đến mức trẻ em và người lớn mới được chữa thị lực thường thích ngồi trong bóng tối để trấn an mình.) Đường cong lĩnh hội cần thiết để bạn sống trong thế giới này, nhưng bạn cũng tự thích nghi theo những cách rất riêng và đáng ngạc nhiên. Hãy thử nhìn từ góc độ của bạn. Nếu bạn đang nằm trên giường và có ai đó chạm vai để đánh thức bạn, nhìn người đó không to bè ra với cái đầu nho nhỏ tít bên trên. Nhưng hãy nằm đúng vị trí ấy và thử chụp một bức ảnh, hiện thực sẽ bị bóc trần. Thân người ngang tầm mắt bạn trông to lớn lạ thường, trong khi cái đầu ở xa tầm mắt hơn lại nhỏ xíu. Tương tự vậy, khi bạn ngồi bên cạnh nói chuyện với một người, mũi anh ta như phổng hẳn lên, và nếu đối chiếu với ảnh chụp, đôi mắt anh ta trông còn to hơn bàn tay đang đặt trên đùi. Chúng ta tự động che đi hình thù thực tế của sự vật trong góc nhìn cá nhân, và biến đổi dữ liệu bằng năng lực tâm trí. Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó. Bạn biết cái mũi nhỏ hơn bàn tay, thế nên ở đây cũng cần có sự điều chỉnh dữ liệu hợp lý. Sự thật gây sốc chính là mọi thứ bạn nhận thức đều đã được điều chỉnh. Các phân tử lơ lửng trong vườn được chuyển thành mùi hương. Các tần số rung động được chuyển thành âm thanh để bạn nghe thấy và định dạng. Không có lối thoát khỏi thế giới do tâm trí nhào nặn này. Đây vừa là vinh quang vừa là hiểm họa với nhân loại. Tản bộ trên đường phố London hai trăm năm trước, nhà thơ uyên bác William Blake cảm thán cho những điều trông thấy:

“Trên từng vết sẹo mặt người
Sẹo yếu nhược, sẹo khổ đau.
Trong tiếng nhân loại than van,
Tiếng ỉ ôi của bầy trẻ nhỏ,
Trong mọi âm thanh: mọi điều cấm kỵ,
Tôi nghe thấy gông cùm tâm trí.”

Đó là một khung cảnh đáng buồn, vậy mà vẫn tiếp diễn mãi tới tận ngày nay. Con người cứ loay hoay trong bể khổ và sóng gió với niềm tin sâu sắc rằng chúng ta đã được định trước số phận ấy. Sẽ không gì thay đổi cho đến ngày bạn chấp nhận là nếu tâm trí có thể tạo ra hiện thực thì cũng có thể phá hủy chúng.

- Còn tiếp -

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng