Phía sau trang sách

Tội ác từ màn ảo thuật

Published

on

Friedrich Dürrenmatt (1921-1990) là một họa sĩ, nhà văn và nhà viết kịch vô cùng nổi tiếng người Thụy Sĩ. Tiểu thuyết Án giả của ông được “giáo hoàng văn chương Đức” Marcel Reich-Ranicki coi là “một kiệt tác văn chương không gì sánh bằng”, tô đậm nên sự phi lý cũng như chủ nghĩa hoài nghi của nhân loại này.

Tác phẩm xoay quanh nhân vật Alfredo Traps trong một cảnh huống “từ trên trời rơi xuống”, khi chiếc Studebaker của anh tắt máy và đứng giữa đường. Lựa chọn duy nhất có thể đưa ra là đến ở tạm ngôi nhà của một cựu thẩm phán mà anh vô tình nhìn thấy bên đường. Nhưng Traps không hề biết rằng chính ở nơi đây mình sẽ tham gia vào việc giả lập một cuộc luận tội đằng sau cái chết của người sếp cũ, được thực hiện bởi những người bạn của ông chủ nhà, bao gồm một vị luật sư, một viên công tố, một tay đao phủ. Liệu Traps có phạm tội ác, và rồi công lý có được thực thi?

Cấu trúc bất ngờ

Cũng như những tác phẩm khác, Án giả có một cốt truyện vô cùng độc đáo. Nổi tiếng với các vở kịch như Bà lớn về thăm, Ba nhà vật lý… Dürrenmatt xây dựng cấu trúc của tiểu thuyết này cũng theo khuynh hướng kịch nghệ, với từng nhân vật thay nhau thể hiện, từ đó khít chặt lại những “khoảng hở” trong câu chuyện chung. Nếu Luigi Pirandello đã từng khiến cho nhiều người sửng sốt khi xây dựng cấu trúc kịch lồng trong kịch ở Sáu nhân vật đi tìm tác giả, thì Dürrenmatt cũng làm được điều tương tự, với một cốt truyện có phần phi lý đến mức khó chịu, mà như ông nói, nó phải gây hấn, vì đó chính là bổn phận của những người viết.

Do đó không hề bất ngờ khi độc giả có thể tìm thấy những điều mâu thuẫn và đầy bất khả trong tác phẩm này. Cũng như Thẩm phán và Đao phủ, Dürrenmatt xây dựng cho các nhân vật của mình ngoại hình có phần tuềnh toàng cũng như giản dị. Như được mô tả, đó là ba người đàn ông xộc xệnh, cài nhầm khuy cúc và mỗi một chân thì lại mang lẫn một chiếc khác bộ. Là đại diện “thực thi pháp luật”, thế nhưng họ khoác lên mình dáng vẻ nhếch nhác và cổ lỗ sỉ, như một châm biếm về sự vô nghĩa của nền công chính.

Tác phẩm Án Giả.

Ở tác phẩm này, Dürrenmatt họa nên phông nền đậm tính gothic, từ đó chuẩn bị cho một bi kịch đậm tính hư vô và đầy phi lý. Thấm đẫm trong tác phẩm này là tiếng lá cây xào xạc, là cái lặng im cũng như bặt tiếng từ chốn phố phường trong một đêm trăng dần như mất hút sau những tầng mây… Chính ở nơi đó, phiên tòa giả lập đã được thực hiện. Dürrenmatt đã tạo được nên rất nhiều vòng lặp của sự phi lý, từ vẻ ngoài cho đến “tòa án” là một bàn ăn đầy những cao lương mỹ vị…

Giễu nhại hơn nữa khi trong số đó chỉ có mỗi tên “đao phủ” khát máu là đóng bộ với hoa cẩm chướng cài trên ve áo, trong khi những người quyền uy chỉ như là kẻ bỏ đi, nhờ nhờ, nhạt nhạt, không mang theo một cá tính nào. Như bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonardo da Vinci, trong tác phẩm này, Dürrenmatt dựng lên với việc tuyên án trong sự đủ đầy của thứ rượu vang được ủ hơn mấy mươi năm và những thức ngon đầy vẻ xa hoa. Đó là một sự tương phản gần như kệch cỡm, với bữa ăn cuối cùng và sự phi lý luôn luôn hiện diện. Tuy không có dấu chỉ nào mang yếu tố tôn giáo đặc trưng, thế nhưng không thể phủ nhận việc “nhân bội” chính khung hình ấy đã tạo cho tác phẩm này một dấu ấn khó phai.

Phi lý và hư vô

Đậm đặc trong không khí văn chương của Dürrenmatt là tính phi lý và sự hư vô. Mở đầu tác phẩm, ta không thể biết mục tiêu cũng như ý nghĩa trong phiên tòa này, nhưng chính trạng thái thấp thỏm của Traps đã truyền đến cho người đọc những sự mơ hồ cũng như hoài nghi về tính chính thống và sự đại diện của nền công chính. Càng ngày cảm giác ấy càng tăng lên khi Traps lần giở câu chuyện đời mình, từ người chào hàng bị kìm kẹp dưới ách đày ải của tay cấp trên, đến khi trở thành một người giàu sang, gia đình đầm ấm và đổi đời xe. Tất cả là nhờ một cơn đau tim của tên “bạo chúa” đã nhấn chìm anh.

Những liệu có một “tội ác xuất chúng nhất thế kỷ” nào đứng đằng sau đó? Không cần tốc ký, hồ sơ, sách luật… “bộ tứ siêu đẳng” trong những đêm thâu đã từng xét lại những vụ oan án, từ Dreyfus cho đến Socrates, từ Alexander Đại đế đến cả Jeanne d’Arc… “Bộ tứ” có phần kệch cỡm giống với “bộ tứ” trong tiểu thuyết cùng tên của Agatha Christie – những người không có gì hơn lòng tham quyền lực, một lòng mong muốn phá hủy thế giới. Như “nhà tiên tri” đi lạc thế kỷ, những con người già cỗi ấy của Dürrenmatt cũng sẽ mang lại một góc nhìn mới, nơi sự lão hóa bỗng biến họ ra thành một nhân tố vô cùng thu hút. Chẳng phải Richard Osman ngày nay với Câu lạc bộ án mạng ngày thứ Năm, các nhà văn Bắc Âu như Fredrik Backman hay Jonas Jonasson cũng như vậy sao?

Friedrich Dürrenmatt và bản thảo Án giả trong… hồ bơi.

Không thể phủ nhận việc tìm ra sự phi lý đã có từ thời của vị nhà văn người Thụy Sỹ nổi tiếng này. Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse đã từng nói rằng, với ông, chỉ cần 2 người trên một sân khấu thì đã quá đủ để tạo ra một bi kịch. Ở Án giả, đó cũng là 2 thế lực thay nhau kình chống – giữa người luận tội và người bị luận tội. Fosse nói rằng mỗi khi viết kịch ông lại ngần ngại vì sự ích kỷ của các nhân vật sẽ truyền vào mình, và rõ ràng ở đây, “bộ tứ” cầm cân nảy mực ngày càng tiến lên với sự hoang đường, theo các cấp bậc ngày càng tăng tiến. Sự điên loạn của họ không có nhất mà chỉ có hơn, từ đó mở ra cánh cửa địa ngục với người vô tội.

Và cũng theo đó, việc đặt một người vô tình gặp được trong một buổi chiều ngang những anh hùng lưu danh sử sách có phải là kiểu giễu nhại vô cùng ý nhị của Dürrenmatt? Tăng cấp hơn nữa ông cũng cho thấy cách mà logic và những lập luận không hề giống ai có thể bẻ cong sự thật, chuyển thành tội ác. Lúc còn sinh thời, Dürrenmatt đã từng nói rằng hài kịch chính là hình thức sân khấu duy nhất để thể hiện cái bi trong thời đại nguyên tử, và có lẽ vì thế nên một tình huống “cực đoan” và đầy kệch cỡm được ông chú trọng xây dựng trong cuốn sách này. Cả Jon Fosse và Dürrenmatt đã cùng thấy nó qua thể loại này, và chính từ đó mà sự hư vô cùng nỗi hoài nghi phát huy tốt nhất sức mạnh của mình.

Chuyển thể sân khấu dựa trên tiểu thuyết này.

Rốt cuộc rồi thì không phải sự thiếu nghỉ ngơi, ô nhiễm tiếng ồn, thần kinh căng thẳng… hay hôn nhân không hạnh phúc đã hủy hoại người sếp ấy, mà chính là một cao vọng vươn lên làm giàu của một cá thể mong muốn bình đẳng, và được đối xử một cách xứng đáng đúng với những gì mà y bỏ ra. Chính ở điểm này ta cũng thấy được một sự giễu nhại chủ nghĩa tư bản của Dürrenmatt, khi xem tiền tài cùng với danh vọng như là nguồn cơn và là động lực đi đến tội ác. Thẩm phán và Đao phủ rồi sẽ kế thừa chung chính motif này, trong khi Bà lớn về thăm lại là đỉnh cao của tính hiện thực trong việc châm biếm tương quan tiền tài cũng như chân lý…

Do đó pháp luật hay những chuẩn mực, đối với Dürrenmatt, không hề tồn tại. Khép lại tác phẩm, Dürrenmatt đã nêu bật được những sự phi lý và đầy hư vô của cuộc đời này. Đó là cảnh huống của những sự việc không hề liên quan rồi được móc nối một cách logic. Đó cũng là sự mong manh trong chính con người, mà phiên tòa nào, dù là tự phát, cũng sẽ chỉ ra và rồi tự hủy đi bản thân mình. Qua tác phẩm này, dù chỉ bằng dung lượng rất ngắn, thế nhưng nhà văn người Thụy Sỹ đã cho ta thấy tội ác, sự thông đồng và quyền lực có thể “bôi trơn” bộ máy số phận thế nào, làm nó sai đường từ đó cán nát rất nhiều số phận ra sao. Một tác phẩm đen tối, mang tính cảnh báo, và đầy quan trọng trong thời đại hiện nay.

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng