Phía sau trang sách

Tội ác từ màn ảo thuật

Published

on

Friedrich Dürrenmatt (1921-1990) là một họa sĩ, nhà văn và nhà viết kịch vô cùng nổi tiếng người Thụy Sĩ. Tiểu thuyết Án giả của ông được “giáo hoàng văn chương Đức” Marcel Reich-Ranicki coi là “một kiệt tác văn chương không gì sánh bằng”, tô đậm nên sự phi lý cũng như chủ nghĩa hoài nghi của nhân loại này.

Tác phẩm xoay quanh nhân vật Alfredo Traps trong một cảnh huống “từ trên trời rơi xuống”, khi chiếc Studebaker của anh tắt máy và đứng giữa đường. Lựa chọn duy nhất có thể đưa ra là đến ở tạm ngôi nhà của một cựu thẩm phán mà anh vô tình nhìn thấy bên đường. Nhưng Traps không hề biết rằng chính ở nơi đây mình sẽ tham gia vào việc giả lập một cuộc luận tội đằng sau cái chết của người sếp cũ, được thực hiện bởi những người bạn của ông chủ nhà, bao gồm một vị luật sư, một viên công tố, một tay đao phủ. Liệu Traps có phạm tội ác, và rồi công lý có được thực thi?

Cấu trúc bất ngờ

Cũng như những tác phẩm khác, Án giả có một cốt truyện vô cùng độc đáo. Nổi tiếng với các vở kịch như Bà lớn về thăm, Ba nhà vật lý… Dürrenmatt xây dựng cấu trúc của tiểu thuyết này cũng theo khuynh hướng kịch nghệ, với từng nhân vật thay nhau thể hiện, từ đó khít chặt lại những “khoảng hở” trong câu chuyện chung. Nếu Luigi Pirandello đã từng khiến cho nhiều người sửng sốt khi xây dựng cấu trúc kịch lồng trong kịch ở Sáu nhân vật đi tìm tác giả, thì Dürrenmatt cũng làm được điều tương tự, với một cốt truyện có phần phi lý đến mức khó chịu, mà như ông nói, nó phải gây hấn, vì đó chính là bổn phận của những người viết.

Do đó không hề bất ngờ khi độc giả có thể tìm thấy những điều mâu thuẫn và đầy bất khả trong tác phẩm này. Cũng như Thẩm phán và Đao phủ, Dürrenmatt xây dựng cho các nhân vật của mình ngoại hình có phần tuềnh toàng cũng như giản dị. Như được mô tả, đó là ba người đàn ông xộc xệnh, cài nhầm khuy cúc và mỗi một chân thì lại mang lẫn một chiếc khác bộ. Là đại diện “thực thi pháp luật”, thế nhưng họ khoác lên mình dáng vẻ nhếch nhác và cổ lỗ sỉ, như một châm biếm về sự vô nghĩa của nền công chính.

Tác phẩm Án Giả.

Ở tác phẩm này, Dürrenmatt họa nên phông nền đậm tính gothic, từ đó chuẩn bị cho một bi kịch đậm tính hư vô và đầy phi lý. Thấm đẫm trong tác phẩm này là tiếng lá cây xào xạc, là cái lặng im cũng như bặt tiếng từ chốn phố phường trong một đêm trăng dần như mất hút sau những tầng mây… Chính ở nơi đó, phiên tòa giả lập đã được thực hiện. Dürrenmatt đã tạo được nên rất nhiều vòng lặp của sự phi lý, từ vẻ ngoài cho đến “tòa án” là một bàn ăn đầy những cao lương mỹ vị…

Giễu nhại hơn nữa khi trong số đó chỉ có mỗi tên “đao phủ” khát máu là đóng bộ với hoa cẩm chướng cài trên ve áo, trong khi những người quyền uy chỉ như là kẻ bỏ đi, nhờ nhờ, nhạt nhạt, không mang theo một cá tính nào. Như bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonardo da Vinci, trong tác phẩm này, Dürrenmatt dựng lên với việc tuyên án trong sự đủ đầy của thứ rượu vang được ủ hơn mấy mươi năm và những thức ngon đầy vẻ xa hoa. Đó là một sự tương phản gần như kệch cỡm, với bữa ăn cuối cùng và sự phi lý luôn luôn hiện diện. Tuy không có dấu chỉ nào mang yếu tố tôn giáo đặc trưng, thế nhưng không thể phủ nhận việc “nhân bội” chính khung hình ấy đã tạo cho tác phẩm này một dấu ấn khó phai.

Phi lý và hư vô

Đậm đặc trong không khí văn chương của Dürrenmatt là tính phi lý và sự hư vô. Mở đầu tác phẩm, ta không thể biết mục tiêu cũng như ý nghĩa trong phiên tòa này, nhưng chính trạng thái thấp thỏm của Traps đã truyền đến cho người đọc những sự mơ hồ cũng như hoài nghi về tính chính thống và sự đại diện của nền công chính. Càng ngày cảm giác ấy càng tăng lên khi Traps lần giở câu chuyện đời mình, từ người chào hàng bị kìm kẹp dưới ách đày ải của tay cấp trên, đến khi trở thành một người giàu sang, gia đình đầm ấm và đổi đời xe. Tất cả là nhờ một cơn đau tim của tên “bạo chúa” đã nhấn chìm anh.

Những liệu có một “tội ác xuất chúng nhất thế kỷ” nào đứng đằng sau đó? Không cần tốc ký, hồ sơ, sách luật… “bộ tứ siêu đẳng” trong những đêm thâu đã từng xét lại những vụ oan án, từ Dreyfus cho đến Socrates, từ Alexander Đại đế đến cả Jeanne d’Arc… “Bộ tứ” có phần kệch cỡm giống với “bộ tứ” trong tiểu thuyết cùng tên của Agatha Christie – những người không có gì hơn lòng tham quyền lực, một lòng mong muốn phá hủy thế giới. Như “nhà tiên tri” đi lạc thế kỷ, những con người già cỗi ấy của Dürrenmatt cũng sẽ mang lại một góc nhìn mới, nơi sự lão hóa bỗng biến họ ra thành một nhân tố vô cùng thu hút. Chẳng phải Richard Osman ngày nay với Câu lạc bộ án mạng ngày thứ Năm, các nhà văn Bắc Âu như Fredrik Backman hay Jonas Jonasson cũng như vậy sao?

Friedrich Dürrenmatt và bản thảo Án giả trong… hồ bơi.

Không thể phủ nhận việc tìm ra sự phi lý đã có từ thời của vị nhà văn người Thụy Sỹ nổi tiếng này. Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse đã từng nói rằng, với ông, chỉ cần 2 người trên một sân khấu thì đã quá đủ để tạo ra một bi kịch. Ở Án giả, đó cũng là 2 thế lực thay nhau kình chống – giữa người luận tội và người bị luận tội. Fosse nói rằng mỗi khi viết kịch ông lại ngần ngại vì sự ích kỷ của các nhân vật sẽ truyền vào mình, và rõ ràng ở đây, “bộ tứ” cầm cân nảy mực ngày càng tiến lên với sự hoang đường, theo các cấp bậc ngày càng tăng tiến. Sự điên loạn của họ không có nhất mà chỉ có hơn, từ đó mở ra cánh cửa địa ngục với người vô tội.

Và cũng theo đó, việc đặt một người vô tình gặp được trong một buổi chiều ngang những anh hùng lưu danh sử sách có phải là kiểu giễu nhại vô cùng ý nhị của Dürrenmatt? Tăng cấp hơn nữa ông cũng cho thấy cách mà logic và những lập luận không hề giống ai có thể bẻ cong sự thật, chuyển thành tội ác. Lúc còn sinh thời, Dürrenmatt đã từng nói rằng hài kịch chính là hình thức sân khấu duy nhất để thể hiện cái bi trong thời đại nguyên tử, và có lẽ vì thế nên một tình huống “cực đoan” và đầy kệch cỡm được ông chú trọng xây dựng trong cuốn sách này. Cả Jon Fosse và Dürrenmatt đã cùng thấy nó qua thể loại này, và chính từ đó mà sự hư vô cùng nỗi hoài nghi phát huy tốt nhất sức mạnh của mình.

Chuyển thể sân khấu dựa trên tiểu thuyết này.

Rốt cuộc rồi thì không phải sự thiếu nghỉ ngơi, ô nhiễm tiếng ồn, thần kinh căng thẳng… hay hôn nhân không hạnh phúc đã hủy hoại người sếp ấy, mà chính là một cao vọng vươn lên làm giàu của một cá thể mong muốn bình đẳng, và được đối xử một cách xứng đáng đúng với những gì mà y bỏ ra. Chính ở điểm này ta cũng thấy được một sự giễu nhại chủ nghĩa tư bản của Dürrenmatt, khi xem tiền tài cùng với danh vọng như là nguồn cơn và là động lực đi đến tội ác. Thẩm phán và Đao phủ rồi sẽ kế thừa chung chính motif này, trong khi Bà lớn về thăm lại là đỉnh cao của tính hiện thực trong việc châm biếm tương quan tiền tài cũng như chân lý…

Do đó pháp luật hay những chuẩn mực, đối với Dürrenmatt, không hề tồn tại. Khép lại tác phẩm, Dürrenmatt đã nêu bật được những sự phi lý và đầy hư vô của cuộc đời này. Đó là cảnh huống của những sự việc không hề liên quan rồi được móc nối một cách logic. Đó cũng là sự mong manh trong chính con người, mà phiên tòa nào, dù là tự phát, cũng sẽ chỉ ra và rồi tự hủy đi bản thân mình. Qua tác phẩm này, dù chỉ bằng dung lượng rất ngắn, thế nhưng nhà văn người Thụy Sỹ đã cho ta thấy tội ác, sự thông đồng và quyền lực có thể “bôi trơn” bộ máy số phận thế nào, làm nó sai đường từ đó cán nát rất nhiều số phận ra sao. Một tác phẩm đen tối, mang tính cảnh báo, và đầy quan trọng trong thời đại hiện nay.

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng