Chuyện người cầm bút

Phạm Công Luận: “Sách dọc đường đời”

Một bạn trẻ dọn về sống trong căn hộ độc thân, kể rằng trong nơi ở mới anh luôn có cảm giác trống trải cho đến khi các thùng sách được đưa về và tủ sách được bày biện xong. Anh nhìn lên kệ, thấy những tựa sách thân thuộc, nhớ lại những câu chuyện đã khiến anh rung động, những triết lý mà anh đã thích thú trong khi đọc sách… Cảm giác chông chênh lúc ấy mới biến mất và anh mới thật sự cảm thấy đang sống trong nhà của mình.

Published

on

Có những người xem sự hiện diện của sách đối với con người như là cây cối trong rừng đối với loài dã thú. Con thú có thể trốn trên cành hoặc nấp sau thân cây để tránh kẻ thù, có thể tìm thấy mùi hương và dấu vết những loài khác trên một thân cây và cũng có thể hái lượm trái chín để ăn, uống nước đọng trên lá và trong dây leo. Con người cũng có thể nấp sau trang sách để quên đi nỗi lo và tìm sự bình yên, có thể học bao nhiêu điều trong sách mà người đời không dạy và có thể kiếm sống nhờ học qua sách vở. Đối với nhiều người, sách là một hệ sinh thái để sống.              

Ngày nay, không khó để lập một tủ sách nhưng cách nay trên dưới nửa thế kỷ không dễ. Lý do chính là việc thường xuyên mua sách khá tốn kém. Một tủ sách giá trị không thể làm nên từ vài trăm cuốn sách mà phải gây dựng trong thời gian dài, có khi cả đời.

Lúc nào cũng vậy, sách nghiên cứu nhập từ nước ngoài luôn cao giá, ví dụ như từ điển hay sách chuyên khảo. Thời Pháp thuộc và trước 1975, có những người học giỏi nhưng vì nhà nghèo nên không dám học lên cao vì không mua nổi sách học của Tây. Cho nên, trong giới đọc sách và nghiên cứu, mượn nhau đọc là điều bình thường. Có người để mất tình bạn vì không trả sách hay vì mượn sách không biết giữ gìn để sứt gáy, mất trang. Ai có sách quý, nhất là tự điển, sách nghệ thuật, sách dịch tác phẩm của tác giả nổi tiếng tậu về ắt được chủ nhân nâng niu, bọc nhựa trong, đóng bìa cứng và làm sổ theo dõi ai mượn để đòi. Ai ghiền đọc chỉ có cách là đi mướn sách mới mong  đọc được nhiều sách trên thị trường chữ nghĩa.

Nhiều người “chữ nhiều tiền ít” cố gắng tạo cho mình một “gia tài” nho nhỏ bằng việc gom từng cuốn sách mình có, mua ở tiệm sách hay vỉa hè. Ban đầu chỉ có vài cuốn sách đặt bên gối. Khá hơn chút thì cất trong rương. Nhiều hơn nữa thì bày trên kệ dài gắn trên tường bằng dây kẽm. Cuối cùng là cố tậu tủ bằng gỗ cứng có cửa kính để chứa sách, có thể chống mối mọt và bụi bặm.

Sách bán dạo và bày bán như hàng chạp phô

Các món ăn và những đồ vật thường dùng như chiếc chiếu, cây chổi lông gà… được bán dạo trên đường phố vì đó là nhu cầu hàng ngày. Khi trở thành nhu cầu thường xuyên của nhiều người ở một không gian nào đó, sách được đưa đi bán dạo như bán vé số hay đậu phộng rang. Hoặc có khi được bày bán chung với hàng chạp phô.

Những năm 1990, ở các bến xe đò thường thấy có những người bán sách dạo. Họ ôm bằng hai tay một chồng sách cao gần tới cổ, rảo quanh bến xe mời khách mua sách. Sách gồm những tựa dễ đọc, tác giả dễ đọc. Nếu không là truyện của Hồ Biểu Chánh, thì là những cuốn sách giật gân ăn khách kiểu như “Vụ án đêm giao thừa”, “Lửa hận rừng xanh”, “Một thời ngang dọc”. Ai cần mua cứ gọi họ đến ngay, đặt chồng sách xuống, tay rút vài cuốn đang ăn khách để mời. Khách sẽ chọn một cuốn ưng ý để giết thời giờ trên chiếc xe đò liên tỉnh chạy chậm rì. Lâu lâu có người mua vài cuốn làm quà cho người ở quê. Kiểu bán sách dạo này không phổ biến so với bán báo dạo, nhưng không phải mới mẻ mà đã có từ lâu 

Nhà văn Nguyễn Hiến Lê kể trong bài viết “Kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn” (giai phẩm Bách Khoa số kỷ niệm 16 năm và Xuân Quí Sửu 1973)  kể là quê ông ngoài miền Bắc ngày xưa còn có những người bán sách dạo mà ông thấy chỉ được một hai lần. “Họ gánh một đôi bồ chứa đầy sách ghé vào nhà bác tôi ở quê. Có lẽ mỗi năm họ mới ghé một lần, bán sách thì ít mà đổi sách thì nhiều: đổi sách lấy giấy đã viết rồi để ra tỉnh bán ra cho những nhà làm lọng làm quạt. họ cũng như hạng người di mua giấy báo cũ bây giờ. Về sau số người cần sách mỗi ngày một hiếm, họ không đổi sách mà đổi kẹo mạch nha lấy giấy: rồi sau nữa người học chữ Nho mỗi ngày một hiếm, giấy cũ cũng không có, nghề đó dẹp luôn”.

Trong báo Sài Gòn, Số 14344, ra ngày 8 Tháng Tư 1940, bài viết “Nghề xuất bản sách” (không ghi tên tác giả) cho biết tình hình bán sách báo lúc đó đầy chán ngán nhưng thực tế có hai người biết cách bán sách rất hay dù không làm xuất bản. Đó là hai ông Phạm Đình Khương và Phạm Văn Thình. Hai ông chỉ phát hành thơ, truyện, tuồng, bài ca thôi mà làm ăn khấm khá. Khắp các chợ nhỏ từ thành thị ở thôn quê đều có tiệm bán sách của hai ông. Các loại sách này thường để chung các đồ vật vụn vặt của người bán dạo bày trên chiếc chiếu trải dướt đất: dao, kéo, gương soi, thuốc phong tình, thơ Chàng Nhái, vọng cổ ân tình v.v… Tác giả đi xuống Cà Mau thấy có năm người bán sách của hai ông này. Còn ở chợ các tỉnh khác ở miền Nam có khá đông người hai bên dãy phố quanh chợ. Ông tả: “nhiều nơi, họ choán một góc trong nhà chợ, dăng dây bốn phía và treo loại sách này lên như thầy pháp lập đàn trận. Những tranh bìa các sách này sặc sỡ, màu in phủ tràn, nét vẽ ngoằn ngoèo, người không ra người, nhà không ra nhà, cây không ra cây, như bùa chú của pháp sư phá đàn, trông rất buồn cười. Anh chèo ghe, người phát cỏ, người bán hàng gánh đều có thể mua được, đọc được, ngâm nga được”.

Tác giả cho biết thêm là cả hai “nhà xuất bản” này tái bản mỗi cuốn hơn năm lần, mỗi lần hai ngàn cuốn, tức một cuốn thơ bán ra mười ngàn cuốn, bán giá năm xu, một cắc hay lên tới hai cắc tùy cuốn. Người mua về bán lại, theo giá trăm, tức giá sỉ. Họ mua mỗi lần cả trăm cuốn, “lạm xạm đủ thứ”, nhất là bài ca bán rất được.

Giữ sách: từ “cặp” sách đến tủ sách

Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong bài viết dẫn ở trên kể về cách lưu trữ sách ngày xưa, hầu như là sách chữ Hán, ở miền Bắc khoảng thập niên 1920: “Hồi tôi còn để chỏm, nhà tôi không có tủ sách mà chỉ có hai cặp sách. Cặp sách của chúng tôi cao độ tám tấc gồm bốn cái cọc một tấm ván gọi là đế, bề mặt bằng khổ tờ giấy bản gấp đôi, nghĩa là chiều dài độ ba tấc, chiều ngang hơn hai tấc (tôi nhớ phỏng chừng như vậy), đóng hai quai để treo lên, hoặc xách hoặc khiêng, thêm một tấm ván nữa ở phía trên để dằn sách xuống. Khi đổi chỗ ở thì có người gánh, y như trong truyện Kiều: “Túi dàn cặp sách đề huề dọn sang”. Một cái cặp như vậy chứa Tứ thư ngũ kinh, ít bộ Bắc sử và bộ Khang Hi tự điển thì vừa đủ. Còn cái nữa chứa một ít sách thuộc, địa lý (tức sách phong thủy), tử vi, bói, vài bộ ngoại thư: Tình sử, Liêu trai, Đường thi, Tống thi, Văn tâm Điêu long và ít cuốn sách Nôm: Kiều, Hoa Tiên”.

Truyện Kiều, tái bản tháng 06.2018 bởi NXB Văn học và Minh Long

Ông kể có một ông bác chỉ có hai cặp sách gồm sáu bảy chục bộ mà đã nhiều sách nhất Tổng. Khi ấy muốn mua sách thì xuống Hà Nội đến một tiệm ở phố Hàng Gai. Khoảng năm 1925 ở đó còn có dăm bảy tiệm bầy những sách in mộc bản ở trên một tấm phản kê hơi cao. Có chừng trăm thứ sách rẻ tiền, còn sách quí cất riêng ở trong. Ít năm sau các tiệm đó cũng dẹp luôn, thay vào là những tiệm bazar.

Liêu trai chí dị, phiên bản phát hành tháng 10/2015 bởi NXB Văn học & Nhã Nam

Trên đất nước có khi hậu nóng ẩm, sách trong tủ thường phải đem ra phơi. Báo Phụ Nữ Tân Văn, Số 198, 4 Tháng Năm 1933 có bài Tản văn “Phơi sách” của Phanh-Ni khá điệu đàng, có đoạn: “Lại ngồi trên chiếu, chung quanh ngổn ngang những sách chinh chòng, tôi ngó qua một vòng, hay trong lòng hơi cảm động như đi tình cờ gặp lại bạn cũ, mắt nhìn nhau chan chứa cảm tình. Bao nhiêu sách gợi bao nhiêu ngày xưa, bao nhiêu tình cũ. Có đủ cả sách đấy: sách bằng thưởng cuối năm ở trường học, từ lớp nhỏ đến lớp lớn, sách in đẹp thay, sơn son thếp vàng, trên bìa đầy những bông hoa chạy lẫn chỉ vàng, cầm lên lại bâng khuâng nhớ những ngày… những ngày xưa, buổi mình đưa tay lãnh sách, trái tim đập mạnh như vỡ ra nhồi máu trong đấy như xung hết lên mặt, nóng đến hai tay…”. Bà Tùng Long, nhà văn nữ viết truyện xã hội nổi tiếng trước 1975 kể trong Hồi ký về thú đọc sách của mình hồi còn nhỏ trong gia đình. Có cha là công chức Sở Thương chánh thích đọc sách báo và có viết bài gửi cho báo Nam Phong, Hữu Thanh, mua rất nhiều sách báo nên bà may mắn từ nhỏ đã sống với sách báo thơ văn. Sách của người cha để đầy các tủ, mẹ của bà lãnh phần chăm sóc đống sách báo không để mối mọt gặm nhấm. Mỗi tháng một lần, người mẹ chọn ngày nắng ráo đem sách ra phơi, bà Tùng Long còn làm một bé gái lãnh phần trông sách. Vừa trông vừa đọc báo, đọc sách có khi say mê đến nỗi ngồi ngoài nắng mà không biết. 

Giang san nhà chồng, tác phẩm của Bà Tùng Long được phát hành tháng 06/2015 bởi NXB Văn học và Phương Nam Book

Đối với những người có điều kiện kinh tế, sách báo được mua về vẫn được xem là thứ vật chất quý giá để giữ gìn. Tôi có đọc câu chuyện trong một cuốn bút ký sau 1975, về một anh trí thức Sài Gòn nhà giàu Tây học bỏ nhà theo kháng chiến. Nói về sự kiên quyết dứt bỏ giàu sang của anh ta, tác giả kể anh không hề tiếc ngôi biệt thự, cái tủ rượu và một tủ sách đồ sộ. Bộ ba này được coi là những thứ phong lưu bậc nhất mà người thời ấy có được.

*

Trong gia đình tôi, hầu như ai cũng thích đọc sách từ ba mẹ đến các con, dù đã đi làm hay còn đi học. Tuy vậy,  cách nay năm mươi năm, số sách trong nhà chỉ độ vài chục cuốn đọc đi đọc lại. Quý nhất chỉ là vài bộ truyện Tàu, bộ Việt Nam Thi nhân tiền chiến, vài tập thơ và vài sách bình luận văn chương của ông anh học Văn khoa. Góp chung chỉ đủ một kệ sách dài khoảng hai mét. Chỉ nhờ các tiệm cho mướn sách, từ giữa thập niên 1960 anh em chúng tôi mới có thể đọc được nhiều sách.

Sinh thời, ba tôi còn giữ ký ức về chợ sách trên lề đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần khu chợ Đũi) khoảng 1954. Đọc cuốn Một mảnh tình riêng của nhà văn  Sơn Nam, thấy ông nhắc tới chợ sách lề đường này và cho đó là “nét đẹp nhất vào màn chót của việc chấm dứt một thế kỷ đô hộ của người Pháp”. Ở đó bán nhiều cuốn sách quý một thời của những người sưu tập cất trong thư viện gia đình, mạ chữ vàng. Ông kể : “Nhiều quyển nhất là sách khảo cứu bán rẻ, thí dụ như sách cơ bản để tham khảo về văn minh Chăm, điện Ăng-ko, đạo thiền, toàn tập văn chương của những bậc lừng danh Pháp, hoặc Đức, Anh dịch sang chữ Pháp. Sách của những luật sư kỹ nghệ gia Pháp từng lưu trú lâu đời ở Sài Gòn, già rồi họ về xứ để nhắm mắt. Lại còn sách lấy ra từ các thư viện các câu lạc bộ sĩ quan Pháp, câu lạc bộ thể thao, đồn điền cao su”. Đây là cơ hội hiếm hoi để sở đắc những cuốn sách đẹp và quý với kỹ thuật đóng sách cao cấp hơn hẳn thời sau này. Tuy vậy, dù là sách vỉa hè, dù giá bán rẻ hơn trước nhưng theo ba tôi, giới bình dân không mua nổi vì giá vẫn còn khá cao so với thu nhập của họ.

Đầu thập niên 1960, đại lộ Lê Lợi trở thành thiên đường của giới ham đọc và ham học. Ở đó, ngoài khu bán sách vỉa hè phía bên vỉa hè gần nhà thương Sài Gòn và các  quán bán sách báo và bưu ảnh, còn có khoảng chục nhà sách, lớn nhất là Khai Trí, và các nhà sách Tự Lực, Việt Bằng, Vĩnh Bảo, Dân Trí, Khai Trí, Phúc Thành, Lê Thành Tuân, Việt Hương, Nguyễn Văn Trung, Văn Hữu, Lê Phan, Hoa San, Thu Tâm… Người đọc  lúc ấy ra đến đó là mê mẩn, nhưng mua phải dè sẻn. Nhà sách Khai Trí có cho đọc tại chỗ nên có  rất nhiều người tranh thủ coi cọp, tranh thủ nạp cho nhanh cho nhiều chữ nghĩa vào đầu không mất tiền.

Trong hành lang Eden khoảng thời gian này có ba nhà sách bán sách báo ngoại quốc, nổi bật là một tiệm sách tiếng Anh tuy nhỏ nhưng khá nổi tiếng lấy tên là Book Shop. Lúc đó, phong trào học Anh ngữ đang lên, người Sài Gòn đến học các trường tư dạy tiếng Anh để mong tìm được việc làm thư ký hay phiên dịch ở các hãng buôn ngoại quốc, các sở thông tin hay các tòa Đại sứ Anh Mỹ. Lúc đó chỉ có sách dạy tiếng Anh cho người Pháp, người Mã Lai, người Thổ Nhĩ Kỳ .v.v… Hiệu sách này ra đời đáp ứng như cầu đa dạng hơn về sách tiếng Anh. Được nơi thành lập là Hội Ái hữu Phụ nữ Hoa Kỳ đứng ra nhập sách báo xuất bản tại Mỹ về Việt Nam, hiệu sách có đủ các loại: Tiểu thuyết best-seller trong năm, sách khảo cứu đủ loại từ làm vườn, trang hoàng nhà cửa, nuôi con… cho đến sách hội họa, văn chương, chính trị. Ngoài ra, có cả các tuần san, nguyệt san như Life, Saturday’s Evening Post, Esquire, Photography v.v… Riêng sách học tiếng Anh có đủ sách dành cho các cấp độ, từ Tự điển bỏ túi cho đến Bách khoa từ điển. Tuy nhiên mỗi tựa sách ngoại ngữ nhập về đây không nhiều lắm nên chỉ một thời gian ngắn là hết veo.

Các cuốn sách quý thật sự trở thành của cải, có giá trị mua bán trao đổi trong giới đọc và chơi sách. Trong thư viện gia đình của dân chơi sách tầm cỡ, thường là khá giả trở lên, sở hữu nhiều sách giá trị mà nhà sách hay có khi thư viện không có, hoặc không phong phú bằng.

Tôi biết trên thế giới này, có rất nhiều người không cần đọc sách vẫn có cuộc sống hạnh phúc hay yên ổn cả đời. Nên viết về chuyện đọc sách, mua sách, khen chê cái hay cái dở trong một cuốn sách hóa ra chỉ trong thế giới những người đọc sách. Tản mạn về thú đọc sách là muốn chia sẻ điều mình nghĩ trong thế giới chỉ dành riêng cho ai tìm đến niềm vui, sự thức tỉnh và thổn thức trước những trang sách.

Hồi mới lớn, sau 1975, tôi có dịp vào hai ngôi nhà mà cả nhà đã bỏ ra nước ngoài. Một ngôi nhà trong cư xá Nha Trước bạ ở Phú Nhuận của một bác sĩ, có phòng tập thiền bằng gỗ và một tủ sách nhỏ ở phòng khách. Tủ sách toàn những cuốn dày như Papillon, người tù khổ sai, Tội ác và hình phạt, Bản du ca cuối cùng của loài người không còn đất sống, bộ Thành ngữ điển tích danh nhân tự điển, cuốn Tình em vỗ cánh cùng nhiều cuốn tạp chí Thời Nay. Lần đầu tiên tôi được cầm những cuốn sách đó trên tay, mới toanh và cứng cáp, không bị đóng kẽm cứng ngắc đến mức đọc mất chữ gần phía gáy sách như các tiệm cho mướn sách hay làm. Tuy mê mẩn nhưng tôi chỉ dám mượn một cuốn để đọc. Sau đó, nó nhanh chóng vơi bởi những người giữ nhà không thích đọc sách mà dùng vào việc khác, chỉ một tháng sau đó. Tủ sách thứ hai ở một ngôi nhà phố trong hẻm của người Hoa trong Chợ Lớn. Buổi tối đứa bạn trong xóm có người chị làm ở cơ quan tiếp nhận nhà người bỏ ra nước ngoài rủ tôi đến đó tìm chị nó. Chị biết tôi thích sách nên bảo là sách chủ nhà để lại nhiều lắm, thích thì cầm về. Tôi háo hức vào xem, hoa mắt nhìn các dãy kệ có rất nhiều sách art books, các tập tranh Hoa điểu, đồ sứ cổ, đồ gốm và đồ gỗ kiểu xưa bên Tàu. Tôi chọn một cuốn vẽ các loại khủng long in màu rất đẹp, sách tiếng Hoa in ở Hồng Kông. Về nhà, giở cuốn sách dưới ánh đèn, tôi thấy rớt ra một tấm ảnh chụp năm người, hẳn là một gia đình có hai vợ chồng, cô con gái lớn và hai cậu con trai nhỏ hơn. Trong hình, cả nhà ăn mặc đẹp, dáng vẻ phong lưu và nền nếp. Tôi vẩn vơ nghĩ về gia đình đã ra đi ấy. Hẳn là ngày xưa họ đã có những ngày sống hạnh phúc bên nhau, đã có những buổi tối trong căn nhà đó, có hai cậu con trai được người cha chỉ xem và giải thích từng bức tranh các loài bò sát cổ đại trong sách. Tủ sách này hẳn đã được chắt chiu góp nhặt trong nhiều năm và là trung tâm của đời sống tinh thần của gia đình này, để rồi cuối cùng phải bỏ lại.

Phạm Công Luận
Tác giả của Phương Nam Book



Những tác phẩm nổi bật của tác giả Phạm Công Luận

Chuyện người cầm bút

Hải Âu: Dịch Siêu Nhân Loại là khóa học tôi trân trọng về hiện thực

Tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Published

on

By

Siêu Nhân Loại – tác phẩm mới nhất do Phương Nam Book tổ chức xuất bản và phát hành – là sự kết hợp hoàn hảo giữa thể loại sách tâm linh và sách khoa học tâm lí, đem đến cho bạn đọc nhiều kiến thức thú vị về tâm lí con người nói chung, khái niệm Siêu Nhân Loại nói riêng. Deepak Chopra – tác giả của quyển sách – từng được tạp chí Time vinh danh là “1 trong 100 anh hùng và biểu tượng hàng đầu thế kỷ”.

Xoay quanh tác phẩm này, Bookish đã có cuộc trò chuyện với Hải Âu – dịch giả chuyển ngữ sang tiếng Việt của Siêu Nhân Loại để bạn đọc có thể biết được câu chuyện hậu trường về quá trình dịch tác phẩm, đồng thời tiếp cận Siêu Nhân Loại từ góc nhìn của người dịch.

Siêu Nhân Loại là một tác phẩm có hàm lượng kiến thức khổng lồ từ nhiều lĩnh vực khác nhau, chủ yếu là các lĩnh vực nằm trong khoa học tự nhiên. Khi dịch sách, bạn có gặp khó khăn về vấn đề này không và bạn đã vượt qua bằng cách nào?

Hàm lượng thông tin khoa học khá dày và đa dạng trong sách đúng là một thử thách với tôi xuyên suốt quá trình dịch thuật. Song tôi không thấy mệt mỏi chút nào, ngược lại còn rất phấn khích. Có lẽ vì tôi vốn đã luôn dành nhiều thiện cảm và thời gian cho các đầu sách/bài nghiên cứu khoa học từ trước. Hơn nữa, đồng hành cùng tôi trên con đường này còn có Bác sĩ – Tiến sĩ Vũ Phi Yên, một nhà khoa học và tâm lý học kỳ cựu. Chị cũng chính là người đã giới thiệu cho tôi đọc sách Siêu Nhân Loại bản gốc tiếng Anh. Những thông tin khoa học mà tôi chưa nắm rõ, đặc biệt là ở lĩnh vực y tế và sinh học, đều được chị Vũ Phi Yên cố vấn tỉ mỉ.

Ngoài ra, tôi cũng chủ động tham vấn ý kiến chuyên gia trong những lĩnh vực khác mà Siêu Nhân Loại đề cập. Từ thầy giáo vật lý, kỹ sư công nghệ cao, cho tới người làm vườn, đầu bếp và nhà ngôn ngữ học... chỉ cần có cơ hội tôi đều cắp sách tới học hỏi. Đây là lý do tôi không coi hành trình dịch sách Siêu Nhân Loại là một công việc, mà là một khóa học bổ ích và hết sức đáng trân trọng. Tôi thấy mình thật may mắn.

Hải Âu

Deepak Chopra thậm chí còn trích dẫn một số bài thơ để phục vụ cho luận điểm của mình trong sách. Thơ là một mạch nguồn cảm xúc khác hẳn với văn phân tích; những lúc đó, bạn chuyển đổi mạch nguồn tư duy thế nào để dịch thơ?

Xuất phát điểm của tôi là ngành khoa học xã hội, cụ thể là ngôn ngữ học. Vậy nên tôi vốn đã quen thuộc với việc dịch các bản thảo văn chương và thi ca từ thời còn đi học. Cuốn sách dịch đầu tay của tôi cũng thuộc thể loại tiểu thuyết chứ không phải phi hư cấu. Tôi chuyển mình từ văn phân tích sang thơ hay các trích đoạn kịch cổ điển cũng tự nhiên, giống như đổi từ bút bi sang bút mực nước vậy thôi.

Cái khó của quá trình này thực ra nằm ở việc tái hiện phong cách của từng tác giả được trích dẫn. Thơ William Blake chắc chắn phải khác thơ Rumi hay Kabir; kịch Shakespeare từ nước Anh thế kỷ 16 không thể dịch cùng một lối với lời kinh cổ về thần Shiva của Ấn Độ được. Mong muốn chuyển ngữ sao cho trung thành với văn phong của tác giả nhất, tôi cố gắng tham khảo từ các tác phẩm cùng chủ bút và các bản dịch kinh điển khác. Ngoài ra, tôi cũng có một típ dịch văn chương yêu thích là tìm nghe âm nhạc cùng thời đại, cùng xuất xứ với tác giả để khám phá không gian cảm xúc đã nuôi dưỡng tâm hồn họ. Trải nghiệm này luôn thú vị và khơi dậy cảm hứng.

Điều gì khiến bạn thích thú nhất về miền đất của Siêu Nhân Loại mà tác giả đã vẽ ra?

Điều tôi thích thú nhất về miền đất Siêu Nhân Loại có lẽ là ý tưởng “con người thật của bạn vượt khỏi cả thời gian và không gian”. Tiềm năng của con người là vô hạn – nghe như kịch bản của một bộ phim viễn tưởng nhưng lại được tác giả chứng minh bằng rất nhiều lập luận đáng suy ngẫm. Khao khát được tự do và vượt thoát là điểm chung của con người ở mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Cảm giác bản thân mênh mang như vũ trụ, tràn đầy tiềm năng và sự tự chủ có sức mạnh động viên to lớn với cá nhân tôi.

Hải Âu

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả thường nhấn mạnh ý mỗi chúng ta thường chỉ tập trung lao vào vòng xoáy của vật chất – thứ vốn là ảo ảnh giữa đời thường, mà không bận tâm cải tạo hiện thực của riêng mình. Mỗi người lại có một định nghĩa về hiện thực khác nhau. Định nghĩa về hiện thực của bạn là gì và định nghĩa đó thay đổi như thế nào sau khi bạn dịch Siêu Nhân Loại?

Nhiều năm trước, tôi từng chắc mẩm mình có tư duy “thực tế”, sát với hiện thực cuộc sống. Và “hiện thực cuộc sống” là hiện thực tôi nhìn – nghe – chạm – ngửi thấy. Sau đó, tôi có cú chuyển nhận thức lần một vào ngày hiểu ra rằng: hiện thực khác nhau trong ý thức của từng người. Trước khi biết đến Siêu Nhân Loại, có nhiều tác phẩm điện ảnh và học thuyết khoa học khác đã khiến tôi phải đặt câu hỏi về hiện thực. Nổi bật trong số đó, tất nhiên là series phim kinh điển The Matrix. Tiên đề của hành trình Siêu Nhân Loại cũng như The Matrix, mô tả một hiện thực ảo đã được lập trình mà con người ra sức bám chắc lấy, tự làm cùi mòn đi tiềm năng vô hạn sẵn có trong mình. Đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ AI, đôi khi tôi cũng trộm nghĩ, liệu có khả năng nào con người trên Trái đất là AI bậc cao đang được người ngoài hành tinh thí nghiệm không? Và chúng ta chỉ đang sống trong một ma trận giả lập mà thôi? (cười).

Có một khoảng thời gian dài tôi không còn dám chắc hiện thực là gì và bây giờ là bao giờ. Đến nay, tôi vẫn chưa thể đưa ra lời khẳng định rành rọt nào cho bạn. Song ít nhất tôi đã phát hiện được ở mức này: hiện thực khó định nghĩa còn siêu hiện thực với đa số chúng ta, là chưa thể định nghĩa. Vậy thì chúng ta cứ tạm sống cùng hiện thực mình đang tri nhận, nhưng đồng thời cũng sẵn lòng mở trí để tin rằng, hiện thực ấy có thể là đồ giả. Mọi sướng vui buồn khổ có thể đều chỉ là mơ. Một giấc mơ sáng suốt.

Ở phần cuối sách, Deepak Chopra đem đến cho người đọc một liệu trình để thức tỉnh tâm trí trong 31 ngày. Khi dịch xong sách, bạn có thử thực hiện liệu trình này?

Tôi không đợi kết thúc bản thảo dịch mới thực hành liệu trình Một Tháng Thức Tỉnh. Khi còn đang làm việc ở phần một cuốn sách, tôi đã in riêng liệu trình này ra giấy và đặt thường trực ở nơi dễ thấy nhất trong nhà để nhắc nhở mình thực hành. Có thể nói rằng phần mô tả của mỗi ngày trong liệu trình là tinh túy của cả cuốn sách được chắt lọc.

Tôi thích bài tập của toàn bộ 31 ngày; mỗi bài tập lại mang đến những trải nghiệm đặc biệt riêng. Thế nhưng nếu buộc phải chọn ra một ngày ấn tượng nhất, có lẽ tôi sẽ chọn ngày thứ 16 – ngày tác giả nói về giấc mơ sáng suốt và so sánh hiện thực hằng ngày là một giấc mơ sáng suốt. “Tưởng tượng xem, đây chỉ là một giấc mơ, và tôi chỉ là kẻ đang mơ”.

Deepak Chopra

Trong Siêu Nhân Loại, tác giả cung cấp rất nhiều câu chuyện, thông tin, những thí nghiệm khoa học thú vị. Đâu là phần khiến bạn thấy bất ngờ và thú vị nhất vì chưa được biết qua trước khi dịch tác phẩm này?

Rất khó để nêu một ví dụ duy nhất, vì có nhiều phần khiến tôi ngạc nhiên xen lẫn thích thú trong quá trình dịch. Tôi đành mượn vô thức bật thật nhanh ra câu trả lời đầu tiên trong tâm trí, nhưng lại có tới hai dữ kiện đồng thời xuất hiện. Thứ nhất là đoạn nói về loài chim hải âu pêtren tuyết – một loài chim hiếm, kiên cường sinh sống ở lục địa Nam Cực hoang lạnh. Trước đây tôi chưa từng biết đến loài chim này. Chúng xinh đẹp theo cách kỳ lạ lắm.

Dữ kiện thứ hai là chi tiết rất nhỏ thôi, nằm phần đầu sách: “Thông tin đến mắt chỉ cho thấy căn phòng bạn đang ngồi có những bức tường tụ vào nhau ở góc phòng, nhưng bạn biết căn phòng này hình vuông, vì vậy bạn nắn chỉnh dữ liệu cho khớp với hiểu biết đó”. Tôi vẫn nhớ như in cảm giác “a ha” khi hiểu được ẩn ý của ví dụ này. Một thông tin tưởng chừng hiển nhiên, các bức tường phòng thường tình sao có thể trông giống góc gì khác ngoài góc vuông được? Nhưng bạn thử làm bài tập này với tôi nhé. Bạn nhìn thật kĩ xem, thực tế ở điểm giao nhau của 3 mặt tường phòng, bạn thấy góc gì vậy? Hoặc bạn có thể phác thảo ra giấy chính xác hình ảnh mắt nhìn thấy để dễ hình dung hơn.

Bật mí với bạn, tôi đã ngỡ ngàng nhận ra hình ảnh thực tế mắt mình nhìn thấy là góc tù, nhưng ý thức lại tự động “điều chỉnh” thông tin ghi được thành vuông cho khớp với thực tế là tôi đang đứng trong một khối hộp lập phương. Thật thú vị phải không?

Deepak Chopra thường được xem là đứng giữa khoa học và tâm linh khi ông dùng nhiều kiến thức khoa học để lí giải vấn đề tâm linh. Những người theo khoa học thuần túy cho rằng sách của ông là ngụy khoa học; tuy nhiên, đứng từ góc nhìn khách quan, sách của ông tạo được ảnh hưởng rộng lớn đến công chúng phổ thông có lẽ cũng đến từ sự kết hợp hài hòa giữa khoa học và tâm linh. Là người dịch quyển sách, là người đã chậm rãi đi cùng quyển sách trong suốt một năm, bạn có thể chia sẻ một đoạn trích trong tác phẩm mà cá nhân bạn cho rằng đó là những dòng đẹp nhất, kết hợp những điều tinh túy nhất từ khoa học và tâm linh trong tác phẩm không?

Tiếp tục là một câu hỏi khó cho tôi vì hầu như ở chương nào của cuốn sách, độc giả cũng có thể tìm được bằng chứng thuyết phục về sự kết hợp khéo léo này. Tôi lại xin chọn một ví dụ ngẫu nhiên bật ra từ vô thức, nằm ở trang 156-157 (Chương 5 – Tâm trí, Cơ thể, Não bộ, và Vũ trụ đều là ý thức biến đổi):

“Thay vì thụ động chấp nhận thế giới thông thường, siêu hiện thực cho chúng ta một lựa chọn mới – coi vạn vật trong vũ trụ đều là những biểu hiện biến đổi của ý thức. Ví dụ, một cái cây thực ra đã được tùy chỉnh sao cho phù hợp với cách con người tiếp nhận nó. Bất kỳ đặc tính nào của cái cây cũng có thể tháo rời khỏi khung nhận thức xác định và gắn vào một khung nhận thức khác, không còn thuộc về con người. Với người mù, màu sắc của cái cây không tồn tại. Với neutrino – một hạt hạ nguyên tử có thể lao xuyên qua Trái đất dễ dàng như giữa khoảng không vũ trụ, độ rắn của cái cây không tồn tại. Nếu bạn bứng cái cây lên Trạm Vũ trụ Quốc tế, trọng lượng của nó biến mất. Nếu so sánh với thời gian hàng tỷ năm để phân rã proton trong hạt nhân phân tử, tuổi thọ của cái cây cũng không còn đáng là bao.

Vạn vật có “tính thực” thông qua phương pháp biến đổi mà ý thức áp dụng. Khi bạn ngủ, toàn bộ thế giới vật chất mờ đi và biến mất. Thế giới ấy vẫn tồn tại nói chung, được duy trì bằng những quy luật của bầu thực tế ảo. Nhưng khi ngủ, bạn thoát khỏi thực tế ảo bằng cách mở rộng trải nghiệm tới một thế giới khác, nơi không phải miền vô thức trống rỗng như con người vẫn tưởng. Chúng ta có thể cảm nhận giấc ngủ sâu như một nhận thức thuần khiết mà không có các kích thích – thật vậy, đó chính là trải nghiệm của những bậc thầy tâm linh, yogi và nhiều dạng thức siêu nhân khác qua hàng thế kỷ. Khái niệm Niết Bàn của Phật giáo gần với trạng thái ngủ say hơn là tỉnh táo, bởi Niết Bàn tái kết nối con người với miền nhận thức thuần khiết”.

Cảm ơn bạn vì những chia sẻ về Siêu Nhân Loại. Chúc bạn sẽ luôn vững bước trên hành trình phát triển bản thân, mở khóa tiềm năng vô hạn trong bạn.

Đọc bài viết

Bookish Best

Nguyễn Hoàng Mai: Tôi muốn viết về những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ

Published

on

By

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Hiện nay, cô đang sinh sống và làm việc tại Tokyo. Tuy đã xa Việt Nam nhiều năm, Hoàng Mai vẫn đọc và thường xuyên theo dõi tình hình văn chương nước nhà. Trong khuôn khổ của giải thưởng Bookist Best 2022, Ban Tổ chức đã có cuộc trò chuyện với Hoàng Mai xoay quanh việc đọc và sáng tác văn chương.

Chào Nguyễn Hoàng Mai. Cảm ơn Mai vì đã nhận lời phỏng vấn của Bookish về những tác phẩm bạn đã đọc năm 2022 nhân dịp mùa giải Bookish Best lần II đang diễn ra. Bạn nghĩ gì về giải thưởng Bookish Best?

Được biết Bookish Best là một giải thưởng văn học mới được thành lập tròn một năm nhưng mang nhiều ý nghĩa đặc biệt đi cùng với cộng đồng – hầu hết là những bạn trẻ thực sự yêu, dành nhiều tâm huyết với sách vở. Bookish Squad có hơn 13.000 thành viên mà tôi cũng “nằm vùng” trong số đó. Ở giải thưởng này, độc giả những người trực tiếp thưởng thức văn học được cất lên tiếng nói, tự tay bình chọn cho những tác phẩm gần với trái tim của mình nhất.

Là một người viết trẻ, tôi mong sẽ có nhiều sân chơi hơn nữa, để thị trường sách Việt Nam thêm sắc màu, sôi động, gần hơn với độc giả trẻ tuổi, và dòng chảy xã hội.

Năm nay, Mai có theo dõi tình hình xuất bản trong nước không? Có cuốn sách của tác giả Việt Nam nào khiến bạn ấn tượng không?

Do sống học tập ở Nhật nhiều năm, tôi đã không có cơ hội đọc văn học trong nước trong một khoảng thời gian dài. Sau này khi có dịp tiếp xúc trò chuyện, với những cây bút trẻ có tiếng như chị Nguyễn Dương Quỳnh, Huỳnh Trọng Khang, Thái Cường, Phát Dương… Ở họ, tôi đều cảm nhận sự nghiêm túc, trăn trở với nghề. Những bạn văn tôi được tiếp xúc đều sáng tạo, nghị lực, khiến tôi học hỏi nhiều.

Về văn học trong nước đã đọc gần đây tôi ấn tượng với tập truyện Chuyến Bay Tháng Ba của tác giả Lê Khải Việt, Chopin biến mất của Hiền Trang. Và đặc biệt tôi quá yêu mến Đà Lạt bàng bạc, ẩn hiện trong cuốn Thành phố những lục địa bay của tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Là một người viết, khi đọc tác phẩm Thành phố những lục địa bay, bạn có học hỏi được gì về kĩ năng viết không?

Như đã nói, tôi thích chất thơ man mác lạnh như sương mù trên đỉnh núi, phảng phất trong từng câu văn, nhịp điệu của cuốn sách này.

Từng câu chữ không hề nhắc đến danh từ Đà Lạt, nhưng thành phố ấy vẫn hiện ra trong từng lát cắt mỏng, rồi nhẹ nhàng len lỏi vào lòng người như những hơi thở nhẹ. Vì tôi luôn nghĩ cuốn sách đẹp nhất, ý nghĩa nhất không phải nằm im lìm trên những ngôn từ trang giấy, mà sẽ không ngừng sinh sôi nảy nở trong tâm trí người đọc theo trải nghiệm của cá nhân nên rất ấn tượng với tập truyện mỏng của anh Nguyễn Vĩnh Nguyên.

Thành phố những lục địa bay là một thực hành của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên về việc phá vỡ ranh giới những thể loại, bất phân giữa hư cấu và phi hư cấu. Mai nghĩ gì về thực hành này? Bạn có cảm hứng muốn thực hành thủ pháp này cho những truyện sắp tới của mình không? Nếu có thì đâu sẽ là địa danh được bạn chọn lựa?

Tôi cảm nhận Thành phố những lục địa bay là cuốn sách rất đặc biệt bởi lẽ nó đã phá vỡ ranh giới của các thể loại. Độc giả khi lần đầu bước vào thế giới trong sách sẽ đầy nghi hoặc: Truyện ngắn? Tất nhiên không rồi. Hư cấu? Không hẳn, cũng không phải tản văn hay phi hư cấu. Những nhà nghiên cứu sẽ không gọi đó là Haiku hay truyện cực ngắn dù rất gần trong bản chất.

Và đáp án dành cho mỗi người có lẽ là, thực ra không cần phải quá chú trọng vào ranh giới giữa các thể loại văn học. Giữ trí tưởng tượng của chúng ta vượt qua những khuôn khổ, vượt qua những giới hạn, biết đâu đó là vùng đất văn chương thực sự?

Tôi được tác giả tặng tập truyện này trong một chuyến về Việt Nam chơi, khi đang ấp ủ viết cuốn truyện mới về thành phố tôi đang sống – Tokyo. Đó là tuổi trẻ hoang hoải đầy rực rỡ và cũng nhiều vấp ngã tôi đã trải qua, và vẫn muốn khám phá thêm. Giống như một cái Duyên vậy, nên tôi cũng muốn học hỏi một chút thôi vào tập truyện mới của mình. Không, tôi sẽ không phân tích bút pháp cụ thể để cố “bắt chước” cho giống đâu, mà muốn mình học tập từ trong vô thức khi đã gấp sách lại, để thời gian lắng xuống. Tập truyện mới về Tokyo của tôi sẽ đi giữa vùng đất của những địa danh hiện thực và trí tưởng tượng.

Mai có thường xuyên theo dõi tình hình xuất bản ở Nhật không? Nếu có thì năm vừa qua, có cuốn sách nào mới xuất bản khiến bạn ấn tượng không? Bạn có nhận thấy thị trường sách ở Nhật có điểm nào hay mà thị trường Việt còn đang thiếu không?

Tôi rất thích không gian của những chuỗi nhà sách lớn, lâu đời của Nhật như Maruzen, Kinokuniya, Junkudo… Mỗi khi đến đó tôi đều cảm nhận được văn hóa đọc, niềm say mê với sách của người Nhật không thể diễn tả thành lời. Nhà sách là nơi những cuốn sách ấy thực sự sống, theo kịp với những thay đổi của xã hội theo đúng nghĩa đen.

Vì yêu sách nên mỗi năm tôi đều theo dõi hai giải thưởng văn học uy tín, lớn nhất của Nhật Bản cũng đồng thời tượng trưng cho hai trường phái văn học Nghệ Thuật và Đại Chúng là: Giải thưởng Akutagawa và Naoki.

Tôi thích hầu hết những tác phẩm bước ra từ giải thưởng này như: Hibana (2015, tác giả Naoki Matayoshi), Konbini ningen (2016, tác giả Sayaka Murata)… nhưng gần đây, đặc biệt ấn tượng cuốn tiểu thuyết tâm lý ngắn Oishigohan ga taberaremasu youni (tạm dịch: Để thưởng thức được thức ăn ngon) của nữ tác giả 34 tuổi Junko Takase, vừa mới đoạt giải Akutagawa năm 2022. Tôi nghĩ sự phức tạp của tính cách và mối quan hệ chân thành, vừa đối nghịch vừa gắn bó giữa bộ ba nhân vật, được miêu tả tinh tế thông qua những món ăn trong cuốn sách này sẽ chạm đến trái tim của nhiều độc giả trẻ tuổi.

Được biết bạn đang viết một tập truyện ngắn xoay quanh đời sống du học sinh ở Nhật và có dự định xuất bản thời gian sắp tới. Bạn có thể chia sẻ một chút điều mình tâm đắc về tác phẩm này không?

Như đã đề cập ở trên, tập truyện ngắn tôi đang viết mang tên Tokyo, khi những cánh hoa anh đào rơi. Tôi đã muốn khai thác sâu hơn những vùng đất mới mẻ, đầy thách thức chưa nhiều người tìm đến, những vấn đề gai góc nhất của tuổi trẻ như: tình một đêm, xăm mình…

Tập truyện này gồm 10 truyện ngắn nhỏ, về cuộc sống, tình yêu, tâm tình của những người trẻ ở Nhật Bản. Ở đó, tôi đã muốn khắc họa một thế giới nơi tuổi trẻ có những niềm đau, cô đơn nỗi sợ hãi, nhưng cũng sẽ tràn đầy tình yêu, sự tươi sáng, ấm áp trên nền thành phố nổi tiếng của Nhật Bản như: Tokyo, Fukuoka, Kyoto.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian để tham gia cuộc trò chuyện với Bookish Best.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Nhật Chiêu: Truyện tuyệt ngắn không dễ viết

Published

on

By

Lời tiên tri của giọt sương (xuất bản năm 2011) do nhà văn Nhật Chiêu chấp bút là tập truyện tuyệt ngắn và truyện một câu đầu tiên được xuất bản ở Việt Nam. Qua đó, Nhật Chiêu cũng là một trong những nhà văn tiên phong cho thể loại này ở Việt Nam. Bookish đã có cuộc trao đổi với nhà văn về truyện tuyệt ngắn.

Tại sao ông lại viết truyện tuyệt ngắn?

Có người gọi truyện tuyệt ngắn và truyện một câu là Hint fiction, tức là truyện có số lượng trên dưới khoảng 25 từ, là loại truyện khơi gợi một cái gì lớn hơn và phức tạp hơn với số lượng chữ ít ỏi nhất. Trong văn chương, tôi thích những gì khơi gợi hơn là những gì thuyết lí, phô bày lộ liễu. Sự khơi gợi sẽ đưa ta đến chân trời khoáng đạt, còn sự phô bày lộ liễu chỉ là hủy diệt mà thôi.

Có nhiều ý kiến cho rằng khi chuyển sang viết truyện tuyệt ngắn là ông đang chọn hướng đi dễ dãi với mình hơn, ông viết truyện tuyệt ngắn vì ông không thể viết những truyện dài. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Truyện một câu không hề dễ như người ta tưởng tượng. Bởi vì ngay cả trên thế giới, dù thể loại này đã tồn tại trước Việt Nam thì số lượng tác giả thành công cũng như tác phẩm thành công là rất hiếm. Nếu hỏi truyện một câu trên thế giới mà được nhớ đến và thường được trích dẫn thì chỉ có một, hai trường hợp. Trong đó, có Augusto Monterroso - tác giả Guatemala với truyện một câu: Khủng long gồm 8 chữ chữ như sau: “Thức dậy, con khủng long vẫn còn đó.” Truyện này được nhiều nhà văn lớn, trong đó có Italo Calvino ca ngợi hết lời, là đề tài cho nhiều tiểu luận khác nhau. Nếu truyện một câu là dễ dàng thì thử hỏi vì sao ít truyện một câu đạt được thành tựu đến thế. Người ta vẫn nói thơ Haiku dễ làm nhưng thật ra có bao nhiêu bài thơ Haiku được nhớ đến như là tuyệt tác. Tại sao quanh đi quẩn lại cũng chỉ là Basho, Issa, Buson, Shiki? Cho nên hãy cứ tạm xem truyện một câu hoặc hai, ba câu cũng giống như trường hợp thơ Haiku. Dễ hay khó không chắc gì quyết được và cũng chẳng cần tranh luận. Ai cảm thấy nó dễ thì cứ thử viết chơi vài trăm truyện. Thế thôi, bao giờ cũng vậy, dễ nhất là nói. Làm lại là một chuyện khác.

Trong văn học của nhiều nước vẫn luôn luôn tồn tại những nhà văn chỉ viết truyện ngắn. Như vậy, ngắn hay dài không phải là thước đo và thật sự càng ngày càng có xu hướng nhiều nhà văn viết truyện tuyệt ngắn. Tôi có rất nhiều tập truyện tuyệt ngắn của nhiều nhà văn loại này như Augusto Monterroso hoặc như tập truyện Hint fiction do Robert Swartwood tuyển của nhà xuất bản lừng danh Norton, hoặc các tập sách mang tên Flash fiction, Micro fiction…Mỗi ngày tôi đều đọc một vài truyện tuyệt ngắn hoặc truyện một câu của các nhà văn trên thế giới mà tôi đã may mắn sưu tầm được và càng đọc tôi càng thấy khó viết. Đó là ý kiến của tôi.

Là người đi tiên phong ở thể loại truyện tuyệt ngắn, trong quá trình viết, điều gì khiến ông cảm thấy khó khăn nhất?

Do thói quen thường xuyên đọc thơ Haiku và công án Thiền tông, đôi khi chỉ có vài từ hoặc chỉ duy nhất một từ, tôi từng ao ước trong thể loại truyện này cũng có những hình thức tương tự. Nhưng vấn đề là làm sao để cho dài ngắn thế nào thì truyện cũng phải có cái gọi là diễn biến truyện, nghĩa là có tính chất tự sự. Muốn vậy, phải có phương pháp, có cách sử dụng ngôn từ đặc biệt. Nếu không thì mọi sự sẽ thành nhảm và ai cũng làm được dễ dàng. Ví dụ: truyện có chữ Đất sẽ chẳng có nghĩa lí gì nếu như nó không có một tiêu đề thích hợp để gợi lên một vận động của truyện. Tiêu đề ở đây là Sử thi nàng Sita và “toàn văn” của truyện nhờ cái tiêu đề đó mà phát tiết ý nghĩa.

Khó khăn lớn nhất theo tôi vẫn là làm sao để nó đến được với người đọc một cách thuyết phục. Điều này không một tác giả nào có thể nắm chắc. Có những cái thuộc về thói quen, thành kiến, tầm đón đợi, thiếu thông tin… sẽ là những chướng ngại cho việc người đọc bước vào văn bản mà không e dè. Còn trong khi sáng tác, tôi cảm thấy mình quen thuộc với thể truyện tuyệt ngắn như thể có “nhân duyên gắn kết” - theo cách nói của Hoàng Lương, người viết lời bạt cho Lời tiên tri của giọt sương.

Ảnh: Thiên Kim
Bài viết: Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng