Trích đăng

Nước mắt một loài hoa & Vì thế anh yêu em

Những giọt nước mắt đắng cay của một người phụ nữ yêu thương mình da diết đã khiến lòng tôi chua xót, nhưng tôi cũng không dám phủ nhận chính những giọt nước mắt đó đã tưới mát tâm hồn tôi, đã nuôi tôi sống để đôi lúc cảm thấy đời sống như đáng sống hơn.

Published

on

Trích từ: Dòng Đời
Tác giả: Elvis Phương
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Người đời có thể kết án tôi là một kẻ lăng nhăng, một người chồng không chung thủy và cả cuộc đời đã dính líu tới rất nhiều phụ nữ trong cũng như ngoài giới nghệ sĩ. Những cuộc phiêu lưu tình ái đó không chỉ mang đến cho tôi giây phút thần tiên mà còn kèm theo biết bao nhiêu dằn vặt, đẳng cay, chua xót. “Ôi đàn bà là vần thơ say, khúc nhạc chua cay”. Có những người âm thầm rời đi thì không nói làm gì. Nhưng có bao nhiêu người đến và ở lại trong tôi thì từ đó cũng bắt đầu bấy nhiêu sóng ngầm, sóng nhỏ, sóng lớn nổi lên. Tôi không bao giờ tự hào về những việc này và cũng không xấu hổ vì nó. Tôi chỉ nói lên sự thật mà có nhiều người vẫn giấu giếm và che đậy mà thôi. Tôi công nhận bản thân mình là một người yếu đuối, một nghệ sĩ bị âm nhạc chi phối từ thuở nhỏ nên bản tính rất yếu mềm, thiếu cứng rắn trong các quyết định. Tôi luôn mong ước được đắm mình trong sự dịu dàng, trìu mến của người đàn bà. Tôi thích nhìn đôi mắt tình lãng mạn, muốn thấy đôi môi cười xinh, thèm nghe những lời nói ngọt ngào, khát khao những vuốt ve êm ái. Chỉ có như vậy tâm hồn tôi mới được thảnh thơi, đầu óc tôi mới được thả trôi trong tiếng nhạc lời ca mà tôi đã đeo đuổi suốt đời.

Tôi sợ những toan tính, những mưu mô, những gò bó, sợ tất cả những thứ đó sẽ giết chết tâm hồn. Phải chăng tôi là con ngựa hoang chỉ biết rong ruổi trên những núi đồi tình cảm, con ngựa hoang lồng lộn đi tìm nơi trú chân an lành để không còn phải rong ruổi hết ngày này sang tháng nọ? Con ngựa hoang khắc khoải kiếm tìm nơi dừng chân êm đềm mà nó khao khát, nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Con ngựa hoang buồn bã, chẳng còn tin vào những gì mà nó hằng mong. Nó mệt mỏi, chán chường, chẳng còn thiết tha tìm kiếm điều gì nữa. Tôi đã từng đau khổ, ray rứt như vậy đấy. Tôi đã bị giằng co dữ dội và đôi lúc tưởng chừng như không có cách nào giải quyết cho ổn thỏa. Tôi phải làm thế nào trước những giọt nước mắt của đàn bà? Những giọt nước mắt chua cay đã in sâu vào tâm trí, ám ảnh tôi trong thời gian ngắn, thời gian dài. Tôi không đủ sức để diễn tả tình yêu của một người đàn bà, sợ rằng làm vậy sẽ không tránh khỏi chủ quan. Tôi không đổ lỗi cho ai trước sự tan vỡ của hôn nhân vì chỉ có người trong cuộc mới biết rõ những gì đã xảy ra. Chỉ là, khi duyên tình đã cạn thì ta biết làm gì ngoài việc chấp nhận sự an bài đó của Thượng đế.

Những lời than thở chất chứa tình cảm yêu thương của một trong những bức thư vẫn được tôi trân trọng cất giữ đến tận hôm nay. Tôi mạn phép đưa lên đây để độc giả thấy rằng tôi đã giữ gìn tất cả thư từ như báu vật và quý trọng vô cùng ân tình của những người đàn bà đã từng ngang qua đời tôi. Lời than thở của người tình đã làm con tim tôi thổn thức và chua xót rất nhiều. Là người có trái tim mềm yếu, làm sao tôi chịu đựng nổi trước sự khổ đau của người thương mình? Là tôi đã gieo đau khổ cho người ta hay đã tự chuốc lấy khổ đau cho chính mình?

Anh yêu thương,

Em không thích có hai chữ ân hận trong đời mình, em tin vào định mệnh và em tin vào chính em. Định mệnh chưa cho em nương tựa, chưa cho em được nép mình trong tay anh, nhưng lòng thương yêu em cho anh là định mệnh trói buộc em vào đời anh.

Đau đớn một điều là dù thương anh tha thiết, yêu anh ngập lòng, đời sống của anh và em vẫn ngoài nhau, vẫn cách biệt và riêng tư, nhưng dù thế nào đi nữa em vẫn mang trong lòng hình bóng của anh, của những gì thiết tha và thương yêu nhất. Những ân tình anh đã cho em, tim óc em đón nhận và sẽ giữ mãi đến hơi thở cuối đời. Nhớ anh với nỗi nhớ mênh mông như sóng cuộn không lối thoát, đã trở thành vết thương hoen rỉ giết mòn tâm tư em. Từng ngày, từng đêm em nguyện cầu, em mơ ước một sự thay đổi nào đó để anh dìu em qua khỏi vực thẳm đau thương và hun hút thời gian này. Nhưng càng ngày em càng thất vọng, nhiều khi (nhất là lúc này) em đã nghĩ đến cái chết. Cái chết sẽ giải thoát em khỏi những phiền muộn phủ kín hồn em bấy lâu nay, một nỗi vô vọng mà em phải đánh đổi bằng sự sống. Em tin có Trời Phật, có đấng tối cao nhìn xuống, đã cho mình gặp nhau, yêu nhau và cùng nhau đi trọn cuộc đời. Em thành tâm nguyện cầu, mơ ước đơn giản nhưng tình yêu này đã làm vỡ tan lồng ngực em. Tình yêu đã thành vết thương rỉ máu trong tim em, em có cảm tưởng cuộc tình mình quá đẹp cũng quá đỗi mong manh, bởi vì yêu tuyệt đối nên tất có ngày tan vỡ.

Chúng mình xa nhau nhiều hơn gần nhau. Anh có thấu chăng nỗi đau mà em đã chịu suốt bao năm dài, sống từng ngày, từng giờ hấp hối chờ anh? Anh yêu, yêu anh là đi vào vùng dông bão, đầy rẫy gian nan, đầy rẫy buồn phiền. Bởi yêu anh nên em khổ sở trăm bề, gian nan ngàn chuyện. Không biết rồi đây cuộc đời em, cuộc đời người đàn bà yêu thương anh hết lòng, không tính toán, không mảy may ân hận thì giây phút cuối đời em có được gần anh? Anh ơi, nỗi nhớ anh làm người em như mê đi, nước mắt em giàn giụa hằng đêm. Em thất thểu tâm hồn, đớn đau như người chết khát trong sa mạc. Mắt cứ xốn đau, lòng cứ quặn thắt từng cơn. Anh ơi làm sao cho em thấy mặt anh, được nghe hai tiếng “Bố” và “cưng” thương yêu ngày nào? Em cầu nguyện cho sự thương yêu này còn mãi – cũng chính là sự sống của em vẫn còn. Em khắc khoải từng phút từng giây như người hấp hối. Chúa Ơi! Phật ơi! Em gọi hết Chúa đến Phật… Em cầu xin ơn trên dìu em qua khỏi cơn đau này. Anh yêu! Anh có biết bao nhiêu năm yêu anh là bấy nhiêu năm em chứa chan nước mắt, nhớ thương khôn nguôi, cay đắng mọi bề. Ngày qua ngày một mình cô đơn lạc lõng, thân xác mỏi mòn, em đã bó gối ngồi suốt đêm thâu để nhớ anh. Em mơ được ôm anh vào lòng, mơ có nhau mỗi ngày, mỗi đêm, mơ đời đời chung thủy yêu anh, mơ đời đời chúng mình có nhau…

Anh ơi, anh có biết trong tình yêu em dành cho anh, ngoài tình cảm tha thiết như vợ chồng, em còn xem anh như một người Cha, một người Anh. Bản tính em cứng cỏi, ngang bướng nhưng từ ngày yêu anh, em nhất nhất nghe lời anh dặn dò. Điều lớn, điều nhỏ em đều cố gắng làm vui lòng anh. Căn phòng em nằm đây lịm người bao nhiêu lần rồi, em chẳng muốn đi đâu, em lủi thủi, em đau riêng mình em, em khóc một mình. Nỗi nhớ làm em điên cuồng, tê tái ngập lòng, thêm một ngày thêm một nỗi sầu. Đời em làm sao vui được khi không có anh. Nhiều khi thấy mình vất vả quá, khổ đau quá, em lo lắng cho mình, em muốn tìm một nơi nương tựa nhưng nghĩ đến để rồi chua xót nhận ra rằng làm sao được khi em đã yêu anh đến thế này. Số phận em sẽ mãi như thế này chăng? Từ ngày gặp anh và yêu anh, anh yêu thương, anh có biết là tình yêu anh đã cảm hóa em, em không còn là người đàn bà của thoát ly, của phá vỡ, của những sự thay đổi mới.

Đời em bây giờ có phải giống như cánh bèo, nước đẩy tới đầu bèo trôi tới đó, lênh đênh xa dạt không chủ định chăng? Đầu óc em lại đầy những hình bóng anh, những kỷ niệm của mỗi lần ta có nhau, chuyện lớn, chuyện nhỏ, hạnh phúc rồi đau thương, những đêm không ngủ, những lần khóc mềm người. Ngày qua ngày tình yêu vẫn còn đây, vẫn ấp ủ tràn đầy… Nhưng anh yêu… Em đã thề với lòng là dù đời em có gian nan cách mấy, dù cơn đau và nỗi nhớ anh có hành hạ em cách mấy thì em vẫn xin thề có trời, có đất là em sẽ cố chịu mọi đắng cay để một ngày nào đó, một ngày mà em không biết, có thể năm năm, mười năm hay hai mươi năm sau em sẽ có anh. Cuộc đời em bây giờ là của anh, dù anh không nhận. Em đã yêu anh từ tâm hồn đến thể xác, yêu thương anh không sót một ly, không chừa một chỗ. Anh yêu! Em còn thở, còn sống là còn yêu anh. Em tin rằng anh cũng yêu em như thế, nhưng hoàn cảnh trở trêu mình không đến được với nhau thì dù mai đây đời em có nổi trôi, có gian truân thì em vẫn là của anh mãi mãi. Yêu đậm sâu như thế mà lẽ nào phải mất nhau sao? Có thể sau này và rất lâu về sau, anh có một giây phút chợt nghĩ đến em và tự hỏi: Em đang ở đâu? Em đang làm gì? Và tại ai?… Và em lúc đó có còn là em nữa không, bây giờ thì hạnh phúc như khói sương! Em và anh là hai cuộc đời, hai con đường, hai chân trời, hai số kiếp… Không có gì thay đổi được sao? Ý nghĩ và ước mơ được có anh, có phải là ý nghĩ điên cuồng không anh? Đánh đổi tình yêu bằng giá nào đây? Và mua hạnh phúc bằng giá nào đây? Phải chăng mua bằng nước mắt, bằng đớn đau, bằng sự chờ đợi mỏi mòn…

Những giọt nước mắt đắng cay của một người phụ nữ yêu thương mình da diết đã khiến lòng tôi chua xót, nhưng tôi cũng không dám phủ nhận chính những giọt nước mắt đó đã tưới mát tâm hồn tôi, đã nuôi tôi sống để đôi lúc cảm thấy đời sống như đáng sống hơn.

Tháng ngày trôi qua cùng bao sóng gió, giờ đây ngựa hoang thật sự, thật sự muốn dừng chân vì đã cảm nhận được ở người bạn đời hiện tại những điều mình khát khao bấy lâu. Đã đến lúc ngựa hoang đi đến quyết định cuối cùng cho cuộc đời mình.

Kể về sự đổi thay trong cuộc đời, về những mối tình của tôi – một Elvis Phương cả đời chỉ biết mê ca hát, mê âm nhạc, bạn bè tôi và khán giả thân quen, những người yêu thương tôi hay hỏi tôi là làm thế nào để anh duy trì việc ca hát và hát mãi mà không chán? Nói chỉ vì đam mê thì cũng chưa đủ, vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Hơn 60 năm lăn lộn trong nghề, ở tuổi này mà tôi vẫn còn đứng vững, vẫn còn gọi là thành công, vẫn còn được mời hát liên tục, nghĩ thì dễ nhưng thực ra không dễ chút nào. Với Elvis Phương mà nói, mỗi lần lên sân khấu cầm micro nghĩa là được sống – càng hát thì càng say mê và hát như chưa bao giờ được hát. Trong những giây phút thăng hoa theo lời ca tiếng nhạc, tôi không khỏi bị cuốn hút bởi bóng dáng, nụ cười và cặp mắt mở to trên gương mặt của một người phụ nữ rất đặc biệt, một người mà tôi xem như sự ưu ái của Thượng để dành cho con ngựa hoang đã mỏi vó câu trên con đường tình ái. Đó chính là người vợ yêu quý nhất đời tôi, Lệ Hoa.

Nhớ lại rất nhiều năm về trước lúc tôi chưa gặp vợ, tôi đã làm việc, đã sống một cuộc đời hay chán nản, không vui vẻ gì và nhiều trăn trở. Tôi sống cho qua ngày, loay hoay tìm kiếm những nguồn vui, để có động lực sống. Rồi định mệnh đưa đẩy, ngày đó đã đến, tôi được yêu, được vui, được rung động để rồi quyết tâm, không chần chừ hay băn khoăn nao núng, ngựa hoang đi đến quyết định làm thay đổi cuộc đời mình.

Động lực sống và cần phải sống vui là giải pháp duy nhất để duy trì công việc mà mình yêu thích. Tôi đã chọn người đi với mình mọi lúc, mọi nơi, quyết chí không buông tay, không rời nhau nửa bước… Vợ tôi chính là người đã giúp tôi bước ra khỏi cuộc đời tẻ nhạt trước kia và tạo ra cảm hứng mỗi ngày cho công việc của tôi được thăng hoa, để có thể tiếp tục hát cho khán giả nghe đến tận bây giờ.

Có thể nhiều người sẽ cau mày: “Ông này nói quá, lại nịnh vợ nữa rồi”. Nhưng bạn ơi, bí ẩn của đời tôi là đây, động lực để tôi sống, tôi hát không nhàm chán là đây. Bạn có đọc hết những tâm tình của tôi trải dài trên từng trang giấy này thì mới thấy được Elvis Phương đầy đủ và chân thật hơn. Vì chỉ cần không thật lòng thì những gì mình viết ra sẽ không còn giá trị. Quan tâm đến người đi bên cạnh cuộc đời mình với tôi rất quan trọng, vì đó là món quà lớn nhất mà Elvis Phương có được trong đời mình. Elvis Phương sẽ không có được thành công như ngày hôm nay nếu không có vợ bên cạnh, hiểu biết và chăm lo tất cả để chồng mình vui, hát và được thăng hoa khi phục vụ khán thính giả.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng