Trích đăng

Nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng danh tiếng Sài Thành

Mùi thịt bò nướng rất thơm, các vị mặn ngọt chua cay chát đều có đủ. Thịt thơm béo hòa lẫn với rau thơm không ngán, thêm bánh tráng cân bằng khẩu vị. Mỗi ngày, quán bán từ 3 giờ chiều cho đến 10 giờ đêm hoặc 11 giờ hơn, tùy theo còn khách hay không.

Published

on

Trích từ: Hồi ức Phú Nhuận
Tác giả: Phạm Công Luận
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 8.2023

– – –

Trong hơn 20 năm trước 1975, nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng tuy tọa lạc trên con đường nhỏ ở Phú Nhuận nhưng tiếng tăm vang ra khắp Sài Gòn – Gia Định. Nhiều người, nhất là giới văn nghệ sĩ biết tiếng nhà hàng này, đã từng đến thưởng thức bảy món bò của bà Tư Lái, bếp chính. Tuy vậy, không mấy ai biết gốc gác của nó.

Khoảng thập niên 1930, bà Trang Thị Hữu, người gốc Triều Châu sinh ra ở miền Tây, có một chị bạn đồng hương lập gia đình với một người đàn ông Ấn Độ làm chủ nhà hàng chuyên chế biến các món thịt bò ở Tiền Giang lấy tên là Au Pagolac. Đến cuối thập niên 1940, quán Au Pagolac được mở ở Gò Vấp, gần nhà bà Hữu. Bà Hữu sang phụ giúp công việc ở quán của chị bạn này và nhờ đó, bà học được bí quyết làm các món thịt bò của ông chủ người Ấn.

Đến năm 1954, hai người con rể của bà Hữu nhìn ra cơ hội có thể kinh doanh nhà hàng với đặc sản là bảy món bò độc đáo từ bí quyết của quán Au Pagolac truyền lại nên bàn với mẹ vợ mở nhà hàng riêng của gia đình. Người con rể đầu là Lê Văn Khá, thường được gọi là Tư Khá, kết hôn với cô con gái lớn của bà Hữu là Nguyễn Thị Duyên. Người con rể sau là Nguyễn Thành Giao, thường gọi là Tám Giao, kết hôn với cô em là bà Trang Thị Hoa (theo họ mẹ). Nhân lúc đó ông Tư khá có nhiều đất đai ở Phú Nhuận chung quanh cổng xe lửa số 8 trên đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyến), hai anh em cột chèo bàn nhau mở nhà hàng trên khoảng đất rộng sát đường ray xe lửa, đối diện nhà ông Tư Khá.

Chân dung bà Tư Lái, bếp trưởng nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng

Trong năm đó, người con trai thứ năm của bà Hữu, cũng là em vợ của ông Tư Khá và Tám Giao, tên là Nguyễn Văn Hồng tập kết ra Bắc. Để nhớ về anh, nhà hàng lấy tên là: nhà hàng bò bảy món Anh Hồng. Tuy nhiên, do ngại bị phiền phức khi lấy tên người bên kia chiến tuyến, năm 1958, dấu sắc được thêm vào chữ “Anh”, thành tên: nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng.

Ban đầu, bà Hữu là bếp trưởng lo việc điều khiển các phụ bếp làm món ăn. Qua từng ngày phục vụ khách, bà dần điều chỉnh cách thức chế biến, nêm nếm gia vị từng món cho hợp khẩu vị của khách Việt. Sau đó, có người em họ của bà là bà Tư Lái, tên đầy đủ là Trần Thị Lái, đến phụ giúp bà trông coi việc bếp núc. Bà Lái khi xưa là người khá giả, từng có nhà cho mướn ở cư xá Đô Thành nhưng vì sống một mình nên đến giúp chị. Bà Tư Lái thể hiện tốt khả năng và vai trò bếp trưởng cho nhà hàng này nên sau một thời gian, bà Hữu rút lui về nghỉ ngơi, giao việc quán xuyến bếp núc cho bà Tư Lái. Từ đó, suốt hơn hai mươi năm tồn tại của nhà hàng Ánh Hồng, bà Tư Lái gắn bó với gian bếp lớn. Bà rất yêu nghề, chăm chút cho từng món ăn, điều khiến cả chục người đầu bếp hằng ngày chế biến các món ăn, lặt rau, pha nước chấm. Dần dần, bà Tư Lái vào sống hẳn trong ngôi nhà nhỏ thuộc khuôn viên nhà hàng rộng lớn cho tiện công việc.

Thực đơn của nhà hàng tập trung vào bảy món chế biến từ thịt bò và được dọn ra theo thứ tự. Trước hết là món bò nhúng giấm, thứ hai là món chả đùm. Sau đó là ba món nướng gồm bò nướng mỡ chài, bò nướng lá lốt và sa-tê (quấn miếng thịt bò tái nướng, không gọi là món sa tế như nhiều báo viết). Cuối cùng là hai món beefsteak – cháo. Một số khách sành ăn có thể đổi món bò beefsteak thành món bò nhúng giấm để ăn thêm. Thường thì ba người kêu hai phần là vừa, khỏe lắm mới ăn nổi mỗi người một phần. Ai thích món gì có thể kêu thêm. Các món này ăn với bánh tráng, các loại rau thơm, xà lách, dưa leo, khế, chuối chát và chấm với mắm nêm ớt sả. Mùi thịt bò nướng rất thơm, các vị mặn ngọt chua cay chát đều có đủ. Thịt thơm béo hòa lẫn với rau thơm không ngán, thêm bánh tráng cân bằng khẩu vị. Mỗi ngày, quán bán từ 3 giờ chiều cho đến 10 giờ đêm hoặc 11 giờ hơn, tùy theo còn khách hay không.

Món bò lá lốt trong cơ cấu bò bảy món.
Minh họa: Phạm Ngọc Khánh

Anh Thiện, con trai thứ bảy của ông Tám Giao nhớ lại: Suốt từ năm 1954 cho đến năm 1975, tuy đời sống miền Nam có nhiều biến động, người Mỹ đến và đi, chiến tranh có khi lan tới Phú Nhuận vào năm 1968, nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng hầu như luôn đông khách. Thực đơn tuy đơn giản với bảy món ăn nhưng được chế biến ngon, giá cả vừa phải nên khách rất ưa chuộng, thích đi ăn theo từng nhóm bạn bè hay đi cả nhà. Nhiều gia đình công tư chức với đồng lương vừa phải cũng có thể cùng đến ăn vào dịp cuối tuần. Nhạc sĩ Vũ Thành An trong bài viết “Vũ Thành An – Tình thư thứ mười bốn” kể là vào năm 1966, ông tổ chức kỷ niệm một năm “Chương trình Nhạc chủ đề” do ông và nhà thơ Nguyễn Đình Toàn thực hiện trên Đài Phát thanh Sài Gòn, và đã chọn nơi tổ chức tiệc là nhà hàng Ánh Hồng. Hôm đó ông nhờ ca sĩ Duy Trác lái chiếc Lambretta đón bố của mình đến cùng tham dự, xếp chỗ gần bên ca sĩ Thanh Thủy vì ông bố rất thích giọng ca của cô. Ngày xưa, chính ông đã mua tặng cho cậu con trai Vũ Thành An một cây đàn mandoline và nhờ vậy, mới có một nhạc sĩ tài năng (từ khi chưa được 10 tuổi đã tự mò mẫm học chơi đàn) xuất hiện. Năm 1972, khi ca sĩ Thanh Lan đậu cử nhân Văn khoa cũng tổ chức tiệc tại quán này. Quán cũng nằm trong số những địa chỉ thường ghé vào cuối tuần để thưởng thức món ngon của gia đình nhạc sĩ Anh Bằng, theo lời kể của con trai ông. Các họa sĩ trong Hội Họa sĩ Trẻ, trong các buổi chiều cuối tuần thường nhờ người nhà đến mua các món bò ở đây mang về nhà họa sĩ Nguyễn Lâm để thưởng thức. Nhiều lính Mỹ, lính VNCH ở căn cứ Tổng Tham mưu và các căn cứ gần đó cũng thường ra đây ăn.

Ông Nguyễn Thành Giao (Tám Giao), một trong hai người sáng lập Nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng. Ông Tám Giao còn là người điều hành hoạt động của nhà hàng từ đầu cho đến khi ông mất năm 1972.

Ông Tư Khá thời đó tham gia điều hành Hội đua ngựa Việt Nam, có quan hệ rộng. Ông có hai người vợ, một ở villa phía sau nhà hàng và bà vợ sau là bà Duyên ở trong căn villa lớn đối diện nhà hàng phía đường rầy. Trước cổng villa và bên trong sân có trồng mấy cây tùng cao ngất mà những năm 1960 còn thấy. Hiện nay, villa này là quán cà phê Miền Đồng Thảo.

Ông Tám Giao phụ trách điều hành nhà hàng dù ông có việc chính là làm kế toán viên cho Công ty Vận tải Đường biển (Compagnie des Messageries Maritimes) ở cảng Nhà Rồng. Mỗi ngày sau giờ làm, ông lái xe đến nhà hàng để trông coi trong ngoài. Vợ ông ít khi ra đây, toàn tâm lo việc nội trợ và chăm sóc 12 người con ở ngôi nhà số 104 đường Lê Lợi, Gò Vấp. Ông Tám Giao vốn là dân kháng chiến gốc gác ở Bến Tre, sống có nguyên tắc, dạy dỗ con cẩn thận, luôn yêu cầu các con phải ăn mặc chỉnh tề. Là gia đình Công giáo, ông cho các con trai học ở những trường lớn như Lasan Tabert hay Lasan Đức Minh, các con gái học trường do các soeur Công giáo đảm trách.

Cư dân sống quanh nhà hàng cho đến nay vẫn còn nhớ vài câu chuyện liên quan đến nhà hàng danh tiếng này. Họ nhớ chủ nhà hàng thường thuê nhân viên chạy bàn là những người sống gần đó, nên một vài người còn nhớ và biết ơn. Mỗi buổi chiều, khách qua đường đi ngang nhà hàng sẽ ngửi thấy mùi thơm hấp dẫn bay ra từ bếp ăn nhà hàng trong khi chế biến món ăn, khi nướng thịt bò với lá lốt, nấu cháo bò hay chả đùm… Sau lưng quán Ánh Hồng là nhà bà Năm có đặt một cái bàn bi da cũ mèm cho thuê, là nơi tập trung đám con nít ít tiền vô tập tành chơi. Gần đó có ông Hóa “thẹo”, một người nghèo trong xóm thường bưng tô cơm không có thức ăn đến xem đánh bi da và ăn ngon lành. Hỏi ông ăn cơm lạt vậy sao chịu nổi, ông bảo: “Cần gì đồ ăn, tao vừa ăn vừa hít mùi bò bảy món vậy là ngon rồi.”

Quán Ánh Hồng của gia đình ông Tám Giao ngày nay trên đường Lê Lợi, quận Gò Vấp
vẫn tiếp tục bán bò bảy món, món truyền thống của gia đình ngày xưa.
Ảnh: Phạm Công Luận

Năm 1972, việc làm ăn đang hanh thông thì ông Tám Giao bị bệnh rồi mất sớm. Ông Tư Khá tiếp tục điều hành nhà hàng. Nhà hàng Ánh Hồng tồn tại thêm hai năm sau 1975 thì đóng cửa, ông Tư Khá hiến cho nhà nước toàn bộ miếng đất có nhà hàng. Chính quyền địa phương biến địa điểm này thành Xí nghiệp sản xuất vợt bóng bàn, hiện nay là siêu thị Bách hóa Xanh. Gia đình ông Tư Khá sau có đến nhà bà Tám Giao đề nghị cho các cháu đi ra nước ngoài cùng nhưng bà không đồng ý vì không muốn xa con.

Khoảng năm 1980, ông Tư Khá cùng bà Duyên sang Bỉ và mất do tuổi già vài năm sau đó. Một số con cháu của ông bà định cư tại Mỹ đã mở nhà hàng bò bảy món, vẫn giữ tên cũ là Ánh Hồng, bên cạnh khu chợ Đồng Hương trên đường Westminster.

Bà Tư Lái sống rất thọ, hơn chín mươi tuổi mới mất ở thập niên 1990. Bà được thờ trong gia đình ông Tám Giao. Năm 2022, bà Tám Giao (Trang Thị Hoa) mất, thọ 98 tuổi.

Hiện nay, chị Kim Anh là con ông bà Tám Giao mở quán ăn gia đình lấy tên Ánh Hồng tại ngôi nhà của gia đình trên đường Lê Lợi, quận Gò Vấp. Chị kế thừa bí quyết của bà ngoại và bà Tư Lái, vẫn chế biến cho khách thưởng thức bảy món bò, hương vị có thể nói là vẫn giữ được như ngày xưa, nhưng vì bảng hiệu không ghi rõ nên không mấy ai biết nơi đây là quán ăn giữ lấy nghề truyền thống gia đình của hậu duệ những chủ nhân nhà hàng bò bảy món Ánh Hồng nổi tiếng khắp Sài Gòn – Gia Định một thời.

– Còn tiếp –

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC

Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.

Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.

Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.

Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.

Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.

Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.

Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.

Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.

Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.

Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.

Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.

Đọc bài viết

Trích đăng

Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Published

on

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc

Tác giả: Alison Weir

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 12.2024

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

GIỚI THIỆU

Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.

Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.

Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.

Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.

Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.

Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.

Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?

Alison Weir

Surrey

tháng Hai 1995

Đọc bài viết

Trích đăng

Vào bếp nấu chè trôi nước ngũ sắc đưa ông Táo về trời – Trích “Thơm thảo xôi chè”

Published

on

Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình. Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.

Trong ngày này, các gia đình thường làm lễ tiễn ông Táo về trời bằng cách thả cá chép. Ngoài ra, mọi người cũng làm mâm cỗ cúng để bày tỏ lòng thành kính với Táo Quân. Trong Thơm Thảo Xôi Chè, nghệ nhân bánh dân gian Trần Thị Hiền Minh đã khéo léo chia sẻ công thức nấu chè trôi nước ngũ sắc, một món ăn vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng và rất thích hợp để bày mâm cỗ cúng ông Táo. Cùng Phương Nam Book tìm hiểu cách làm món này nhé!

CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
500g bột nếp
100g khoai lang tím
150g bí đỏ
300g khoai lang trắng
Nước cốt lá dứa, nước lá cẩm
400g đậu xanh bóc vỏ
150g đường cát
10g muối
100ml nước cốt dừa
Phần nước cốt dừa:
300ml nước cốt dừa
700ml nước dão dừa
20g bột gạo
20g bột bắp
5g hành lá
800g đường cát (nấu chè)
150g đường cát (nấu nước cốt dừa)
100g mè trắng
3g muối
100g gừng sẻ

THỰC HIỆN

Sơ chế:
• Mè rửa sạch, rang hoặc nướng trong lò nướng nhiệt 150 độ C đến khi vàng thơm.
• Gừng gọt vỏ, rửa sạch, xắt khoanh mỏng.
• Khoai lang, bí đỏ luộc chín, giã nhuyễn, để riêng từng phần. Chia bột thành 5 phần bằng nhau. Mỗi phần nhồi khoai lang và màu tương ứng cho hòa quyện.
• Dùng nước ấm nhồi với bột nếp đã trộn kỹ theo từng màu, nhồi nhanh tay để bột dẻo. Khi bột gần mịn đều, thêm nước từ từ tránh làm nhão bột, rồi để bột nghỉ 30 phút.
• Đậu xanh vo sạch, ngâm nở 2 giờ, vo lại cho hết nước chua rồi nấu chín, giã nhuyễn. Xào đậu xanh với 100ml nước cốt dừa và 100g đường trên lửa vừa, thêm 10g muối vào cho đậu béo bùi, đậm vị hơn. Khi đậu xanh không dính tay thì tắt bếp, cho hành lá cắt nhuyễn vào trộn đều. Vo viên đậu bằng cỡ trái chanh nhỏ.

Gói viên chè:
• Chia đều bột nếp, mỗi viên khoảng 30g, gói nhân đã chuẩn bị sẵn.
• Bắc nồi nước sôi luộc các viên chè. Khi chín viên chè sẽ nổi lên mặt nước, nấu thêm 2 phút cho viên chè chín kỹ rồi vớt ra ngâm vào nước lạnh.

Nấu chè:
• Cho 2 lít nước vào nồi cùng với 600g đường và vài lát gừng, bắc lên bếp nấu sôi.
• Cho các viên chè vào nồi nấu sôi chừng 5 phút để viên chè thấm đường và vị gừng, nhắc xuống.

Nấu nước cốt dừa:
• Cho nước dão dừa, đường cát, bột gạo, bột bắp, muối và vài cọng lá dứa vào nồi khuấy đều rồi mở bếp ở mức lửa nhỏ, nấu đến khi sôi, khuấy đều tay.
• Tiếp theo chế thêm nước cốt dừa, để hỗn hợp sôi lại, tắt bếp liền.

YÊU CẦU THÀNH PHẨM
• Nước đường trong, ngọt thanh, thơm dịu mùi lá dứa.
• Các viên chè dẻo mềm, không bị nứt hay nhão bề mặt.

Khi ăn, múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, rắc thêm ít mè rang.

Chè trôi nước ngũ sắc không chỉ đẹp mắt mà còn mang ý nghĩa tượng trưng cho sự đầy đủ, may mắn và sự hòa hợp của năm mới. Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt thanh của đường, vị béo của nước cốt dừa và độ dẻo dai của vỏ bánh trôi kết hợp hài hòa với nhân đậu xanh thơm ngon.

Thơm Thảo Xôi Chè là món quà dễ thương dành tặng những ai đam mê nấu nướng bởi nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn hấp dẫn về nội dung. Ngoài việc hướng dẫn tỉ mỉ các công thức nấu, tác giả còn khéo léo thuật lại cuộc phiêu lưu ẩm thực qua hành trình tìm kiếm các sản vật quý địa phương. Cuốn sách dù đơn sơ, mộc mạc nhưng đã phần nào truyền tải thành công tình yêu nghề của người đầu bếp và trên tất cả là sự tinh tế của nền ẩm thực nước nhà.

Mời bạn tìm mua sách tại đây. Nếu có làm theo các công thức trong sách thì bạn nhớ chia sẻ cho Bookish biết với nha!

Chúc bạn một mùa Tết bình an và sung túc bên gia đình.

Đọc bài viết

Cafe sáng