Book trailer

Hành tinh khỉ: Khi loài khỉ lên ngôi

Published

on

Vào thế kỷ 19, Darwin cùng thuyết tiến hóa đã làm chấn động nền tảng khoa học của thế giới với lời khẳng định: tinh tinh là tổ tiên trực tiếp của loài người. Tư tưởng này đã giáng một đòn mạnh lên các quan niệm từ lâu đời cho rằng “con người là loài siêu đẳng, do Chúa trời sáng tạo ra”. Đến thế kỷ XX, năm 1963, nhà văn Pháp Pierre Boulle cùng tiểu thuyết Hành tinh khỉ lại một lần nữa tạo một nên một làn sóng trên thế giới thông qua việc giải thiêng những ảo tưởng về văn minh nhân loại. Con người có thật là chủ nhân của thế giới và là sinh vật duy nhất có trí tuệ? Cùng với sự phát triển và tiến hóa không ngừng, trong tương lai liệu nhân loại có thể trở nên bất tử hay rồi sẽ bị diệt chủng như các loài khác?

Ngay từ khi còn nhỏ, Pierre Boulle đã ham học hỏi, ưa khám phá mà không biết rằng những tìm tòi của mình sẽ trở thành chất liệu và nền tảng cho các tiểu thuyết trong tương lai. Với mục tiêu đỡ đần cho mẹ, Pierre Boulle đã tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư ở trường Supélec và chuyển đến sống và làm việc ở châu Á trong một thời gian dài, đặc biệt là trong suốt Thế chiến thứ hai. Khi trở về Paris sau chiến tranh, với những trải nghiệm của mình, Pierre Boulle mới quyết định chuyển hướng trở thành tiểu thuyết gia. Tác phẩm đầu tay của ông, William Conrad, được xuất bản năm 1950 khi ông 38 tuổi đã thu hút được sự chú ý của giới phê bình mặc dù ông chưa từng được đào tạo về văn chương. Sau này, cùng với Cầu sông KwaiiHành tinh khỉ, tên tuổi của ông đã được đông đảo độc giả biết đến.

Trong Hành tinh khỉ, người đọc được theo chân người kể chuyện là nhà báo Ulysse Mérou cùng hai nhà khoa học lỗi lạc của nhân loại năm 2500 là Antelle và Levain đến khám phá một hành tinh mới có bầu sinh quyển hoàn toàn giống Địa Cầu. Tại nơi đây, họ sững sờ chứng kiến một thế giới hoàn toàn đảo lộn: con người không còn giữ vị trí thượng đẳng nữa mà bị giáng cấp trở thành những loài động vật không tri giác; trong khi đó, loài khỉ lên nắm quyền thống trị thế giới, với những thiết bị máy móc, cơ sở hạ tầng và một nền văn minh giống y hệt con người. Ở nơi ấy, loài khỉ cũng có ngôn ngữ riêng và hệ thống phân chia giai cấp riêng, cũng có nghề nghiệp và hành xử y hệt con người. Trong quá trình khám phá hành tinh mới mẻ đó, Ulysse cùng những người bạn của mình bị hiểu nhầm là những sinh vật hạ đẳng và rồi cuốn vào một cuộc hành trình giải thoát bản thân đầy chông gai và nguy hiểm.

Trong thực tiễn, mối quan hệ thân cận giữa con người và loài khỉ đã không còn xa lạ trong các công trình nghiên cứu khoa học hay tâm lý học. Từ Nguồn gốc các loài của Charles Darwin cho đến Vật tổ và cấm kỵ của Sigmund Freud đều khẳng định sự tiến hóa con người lên từ loài khỉ (tinh tinh). Qua tác phẩm của mình, Pierre Boulle đặt một giả thuyết ngược lại về sự tiến hóa của loài khỉ và sự giáng cấp của loài người trở về thành động vật. Chúng ta tìm thấy sự hoán đổi vị thế giữa loài người và loài khỉ cho nhau. Bắt đầu tiểu thuyết, ba nhà du hành cùng con tinh tinh Hector đặt chân đến hành tinh Soror với tư thế của những người khai phá. Lần đầu tiên đặt chân vào thế giới mới này, trước khi cởi quần áo bảo hộ, họ để Hector thử nghiệm trước xem con tinh tinh có thể sống trong môi trường mới này không. Con tinh tinh nói riêng, loài khỉ nói chung lúc này như những con vật nuôi và cũng là sinh vật thí nghiệm của loài người. Nhưng càng dấn thân vào Soror, mọi thứ càng trở nên phi lý và đảo lộn. Thế chỗ cho loài khỉ, chính loài người sau đó lại trở thành vật thí nghiệm, vật nuôi, và cả động vật để săn bắn. Thông qua điểm nhìn mới về những con khỉ trên hành tinh Soror, tác giả cho chúng ta thấy những cảm quan về con người trên chính hành tinh mà chúng ta đang sống. Cách những con khỉ đối xử với con người vô tri vô giác cũng là chính là lời đáp trả cho những gì mà con người đã đối xử với chúng ngày xưa. 

Sự phân chia chủng tộc của cộng đồng khỉ thành ba giống loài: đười ươi, tinh tinh, khỉ đột mang những ẩn dụ của Pierre Boulle về văn minh nhân loại. Đặt trong bối cảnh những năm 60 – 70 của thế kỷ XX, trước sự thắng thế của hành loạt các phong trào giải phóng dân tộc và thuộc địa, nền văn minh châu Âu trước đây vốn vẫn tự xem mình là trung tâm nay đã phải chấp nhận về mặt pháp lý quyền bình đẳng chủng tộc. Ngay tại nước Pháp từ sau Đại chiến Thế giới lần thứ hai, nước Pháp đã tiếp nhận rất nhiều dân di cư đến từ các nước châu Phi, châu Âu và châu Á. Nhưng thực tế, vẫn có những sự phân biệt đẳng cấp còn còn tồn tại trong xã hội. Điều đó giống như việc loài đười ươi trong tác phẩm mặc dù được đánh giá là kém thông minh và sáng tạo hơn loài tinh tinh nhưng vẫn luôn có một chỗ đứng trong xã hội, chỉ đơn giản vì chúng luôn tự cho chúng là những người giữ vị trí quan trọng nhất trong xã hội loài khỉ. 

Cũng giống như những tiểu thuyết khoa học viễn tưởng khác về viễn cảnh tương lai như Cỗ máy thời gian của H.G.Wells hay R.U.R của Karel Čapek, Hành tinh khỉ khơi gợi trong tâm trí người đọc về tương lai của loài người. Sự thắng thế của loài khỉ trước loài người sẽ là một điều tất yếu, nếu chúng ta quá ỷ vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật và để sự lười biếng, thụ động và ưa hưởng thủ lên ngôi. Con người ở hành tinh Soror lúc này cũng giống như loài Eloi trong xã hội tương lai của H.G.Wells, chỉ là những sinh vật mang hình hài con người nhưng mọi hành động và suy nghĩ không khác con vật là bao nhiêu. Còn loài khỉ ham bắt chước, chịu động não, sẽ dần dần trở thành chủ nhân của xã hội văn minh tương lai.

Tiểu thuyết được kể dưới dạng một bức thông điệp cảnh báo tương lai nhân loại, gửi trong chiếc chai trôi dạt trên vũ trụ. Trớ trêu thay, thông qua kẻ nhặt chiếc chai đó, chúng ta thấy được sự diệt vong của tương lai nhân loại. Tất cả nên văn minh nhân loại rồi sẽ một ngày tan biến thành tro bụi, trở thành một câu chuyện hài tiếu lâm hay một kịch bản bịa đặt không hơn không kém trước giống loài mới. Sẽ ra sao nếu chúng ta không còn giữ vị trí thượng đẳng? Sẽ ra khi chính chúng ta trở thành loài vật và bị đe dọa bởi bàn tay loài vật khác?

Có thể nói, Hành tinh khỉ là cuốn sách quan trọng nhất trong đời cầm bút của Pierre Boulle. Không chỉ bán được hàng triệu bản, tiểu thuyết còn là tiền đề và nguồn cảm hứng bất tận cho nền Sci-fi sau này. Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành hai sê-ri phim truyền hình trong năm 1974 và 1975 và vô số các loạt truyện tranh. Ngoài ra, tiểu thuyết cũng được điện ảnh Mỹ chuyển thể và phục dựng chín lần. Năm 2017 cũng được biết tới với sự trở lại của hành tinh khỉ trong bộ phim mới War for Planet of the Apes (Đại chiến hành tinh khỉ), điều này chứng tỏ sức sống tiềm tàng của Hành tinh khỉ, xứng đáng với vai trò một tiểu thuyết kinh điển của nền khoa học viễn tưởng.

Hết.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng