Phía sau trang sách

Đà Lạt: Những lục địa bay

Published

on

Là tác giả của những tác phẩm ăn khách bao gồm một tập tản văn, một cuốn du khảo, hai quyển biên khảo, hai cuốn tiểu thuyết viết về Đà Lạt… Có thể nói Nguyễn Vĩnh Nguyên thuộc về số ít nhà văn viết đa thể loại hướng về vùng đất tưởng như có chung cảm nhận. Mới đây, tiểu thuyết Thành phố những lục địa bay của anh đã được ra mắt, nổi bật với nghệ thuật viết độc đáo.

Đà Lạt trong những trang viết

Nghiên cứu rất sâu về vùng đất này ở nhiều khía cạnh, có thể nói Đà Lạt trong những trang viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên vô cùng sâu sắc. Không chọn vẻ đẹp hay sự nhộn nhịp là ánh nhìn của con người ngày nay, cũng không chọn lựa chỉ vì khí hậu như những người Pháp ở thuở sơ khai… Nguyễn Vĩnh Nguyên nhìn nơi chốn này với sự tổng hòa từ các cao điểm, từ tận bên ngoài… để biết nó luôn thay đổi và không cố định.

Tựa đề Thành phố những lục địa bay có phần đặc tả được vùng đất này. Đà Lạt ẩn chìm giữa những âm vọng, từ quá khứ cho đến hiện tại, từ các sử liệu cho đến đan dệt hư cấu… Và cũng giống như biệt danh “thành phố mù sương”, nơi đây chìm ẩn sau lớp sa mỏng. Như một lập trình từ mẹ thiên nhiên, sự thiếu chính xác của những tia nhìn trong việc tạo ảnh nơi mắt con người càng khiến những thứ mà ta nắm bắt (dù thật hay không, dù đúng hay sai) thì cũng chỉ là mảnh nhỏ bé như lục địa bay.

Hồ Xuân Hương, Đà Lạt. Ảnh: Wikipedia

Do đó cuốn tiểu thuyết này vô cùng phân mảnh. Đó là những chuyện và truyện đan cài cùng nhau. Nguyễn Vĩnh Nguyên đi qua ranh giới giữa các thể loại, để pha trộn nó, để hòa lẫn nó, thành một thực tế vừa nguyên bản vừa huyễn hoặc, vừa hiện thực vừa quá khứ… Cũng như Những thành phố trôi dạt hay Ký ức của ký ức, Nguyễn Vĩnh Nguyên triệt để giải cấu trúc, từ đó chính việc làm này phản ánh Đà Lạt, khi giáng cấp từ ngữ trở thành thứ cấp, để chỉ còn lại kết cấu rời rạc và khá phân mảnh.

Ta có thể thấy những viên gạch cũ của quá khứ chính là nền móng xây nên Đà Lạt có thực tồn tại, không là tiên cảnh hay chốn đào nguyên. Cũng như những cuốn du khảo và biên khảo khác, Nguyễn Vĩnh Nguyên vẫn dùng một sự hối tiếc nhìn về Đà Lạt. Đó là hành trình giữa những sử liệu trong các văn khố, nơi ông trở thành một nhà nhân học cố gắng kết nối những người quá vãng vào những sự kiện chỉ còn trên giấy.

Trong tác phẩm này, một Đà Lạt thở hắt của những tàn phai, của những phá hủy vẫn còn trở lại. Đó là di sản u buồn của những kiến trúc phong cách Rococo phù hoa những năm 40 đã bị đập phá để chỉ còn lại đường nét thô cứng, lai tạp tầm thường được nhìn từ phía yếu tố chính trị. Đó còn là những “cafra” – từ chỉ những nỗi buồn chán do sự tha hương đến từ thuộc địa của những người Pháp, với những cây đại dương cầm và bàn bi-a được mang lên đến vùng cao.

Trên nền những quá khứ ấy, Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng cho thấy lại một hiện thực khác của những cảnh quan đang dần thay đổi. Nhặt nhạnh từng biến đổi một, ở tiểu thuyết này, ta thấy cơn sốt “hung hãn” thay đổi hầu hết mọi thứ, từ những mặt tiền diêm dúa, màu mè của thương nghiệp, cho đến khách xa tìm về Đà Lạt như chiếc “tủ lạnh”… Đó là vùng đất giữ cho những sự cắt xẻo, những sự tàn phai cũng như những sự mệt nhoài có thể yên ổn, để tránh hoại thư, để tránh mục rữa… Và giá phải trả là những đồng tiền được tiêu cho đến cuối cùng bởi việc ăn chơi.

Nghệ thuật viết độc đáo

Bên cạnh thay đổi đi theo chiều ngang của trục thời gian, Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng mạnh mẽ đi theo chiều dọc, xa rời chân đế của những hiện thực, để đến với những tầng cao của huyễn tưởng, tưởng tượng và những ảo ảnh vọng âm. Với việc xóa nhòa thể loại, cuốn tiểu thuyết này mang đến rất nhiều góc nhìn vô cùng mới lạ. Có khi là những châm biếm của kiếp nhân sinh (thông qua bệnh dịch như Saramago), mà cũng đôi khi là một ngôi làng chìm xuống đáy hồ (như là Márquez) hoặc cả truyện cổ dân gian về một loài hổ có khuôn mặt người…

Bằng việc khai thác hai trục tọa độ, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã dựng nên một lục địa có phần u buồn, trồi lên trên mây. Đó chính là nơi của những chuyện kể có phần rời rạc, thuộc về giấc mơ. Thành trì chốn ấy vắng ngắt, phế truất mọi chủ thể… để ta thấy được duy chỉ độc nhất là một giọng kể, nhìn từ cao điểm, ở phía bên ngoài và quan màn sương. Cái thiếu chính xác, muôn hình vạn trạng, biến dạng không ngừng giờ đây trở thành đặc trưng của đất Đà Lạt, với những thất lạc bản dạng, mọi thứ nước đôi.

Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt, Tòa nhà chính. Ảnh: Wikipedia

Vẫn là từ ngữ mang đậm vẻ đẹp từ Đà Lạt, một thời hương xa hay những hư vô của sự thoáng qua từ Những thành phố trôi dạt… Thế nhưng thứ làm nên thành công vượt trội của cuốn sách này nằm ở cấu trúc. Với việc giải cấu trúc, Nguyễn Vĩnh Nguyên phân mảnh cuốn tiểu thuyết này, để giữa những mộng và thực, quá khứ và tương lai, hiện thực và huyền ảo… một Đà Lạt đa chiều hiện lên trong nhiều thể trạng, từ tỉnh táo, mơ hồ cho đến điên cuồng và đầy độc tố với chất gây nghiện.

Từ những mảnh nhỏ, một bức tranh đa diện về chính vùng đất với nhiều giọng nói và nhiều giọng kể đã được hiện lên, để đó không chỉ là một tiếng nói duy nhất, mà là tổng hòa của nhiều phong cách, của đa thể loại và của một người chọn lối đi riêng. Thành phố những lục địa bay là một thể nghiệm giải cấu trúc, nhưng lại đến được tận cùng của nơi chủ thể biến ảo khôn lường, không thể lường trước.

Tính bán tự truyện

Không phải là người ồn ã trong giới văn chương, Nguyễn Vĩnh Nguyên vẫn thường xuất hiện như người kiệm lời. Tuy thế ở tác phẩm này, ta vẫn thấy được đâu đó hình dáng của anh, qua việc tự thuật và những ảnh hưởng có phần quan trọng lên nghệ thuật viết. Dẫn truyện trong tiểu thuyết này là một nhà văn hướng về quá khứ. Giữa một cộng đồng lãng quên kí ức và luôn hoài nghi về tính truyền miệng, anh đã đấu tranh để nói cũng như được nói một cách không ngừng. Điều đó ít nhiều cũng là giọng điệu của Nguyễn Vĩnh Nguyên, để quá khứ và hiện tại hợp nhất, để thực và ảo có thể tái hợp… từ đó chân dung của một nhà văn, một nhà nghiên cứu thực địa hiện lên rõ ràng.

Sinh ra tại Khánh Hòa, lớn lên ở Ninh Thuận, Nguyễn Vĩnh Nguyên đến Đà Lạt lần đầu vào năm lớp 9, bởi có nguyện vọng trở thành tu sĩ. Cha đưa anh đưa đến tu viện Don Bosco, thế nhưng mọi thứ không thành, từ đó rẽ hướng đi vào văn chương. Điều này lý giải cho việc vì sao tôn giáo, thánh đường, nhà thờ và những giáo sĩ xuất hiện một cách dày đặt trong tác phẩm này. Đó là quá khứ, và là tiếng vọng mà anh mang theo vào vùng đất này.

Do đó một đoạn thuộc phần Thánh đường được viết như sau: “Nếu anh đạt đến cao điểm của tĩnh lặng rồi mà vẫn không nghe được tiếng chuông thì có nghĩa là tiếng chuông không đi vào tần số cảm nhận của anh”. Sự vụ trở thành giáo sĩ có thể không nằm gần với tần số của anh, thế nhưng Đà Lạt của những biến ảo thay hình đổi dạng đã “nhìn” thấy anh và “chạm” vào anh.

Quang cảnh Đà Lạt nhìn từ trên cao. Ảnh: Wikipedia

Một chi tiết khác cũng liên quan đến chính anh nằm ở mảnh ghép Lính ngự lâm. Trong những hành trình thực hiện các cuốn du khảo, biên khảo… Nguyễn Vĩnh Nguyên đã kể lại rằng mình đã tìm kiếm khắp nơi tư liệu còn lại. Những chuyến điền dã hay đi thực địa kéo gần anh lại với mảnh đất này, nơi người Đà Lạt dần dần tháo bỏ bề ngoài, từ đó ký ức riêng tư có thể tìm lại. Trong mẫu truyện đó, nhân vật chính cũng tìm về người hậu duệ là lính ngự lâm của cựu bảo hoàng, và cũng đã nhận những sự hoài nghi y hệt như thế, bởi dòng lịch sử và những nguy cơ dẫu đã trôi qua rất nhiều năm tháng thì vẫn đủ sức lật ngược tình thế.

Với Thành phố của những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên trong những thể nghiệm của nghệ thuật viết đã cho thấy được một Đà Lạt ảo ảnh, không dễ nắm bắt và luôn chuyển động như những sóng nước. Ôm vào trong mình những mảng lịch sử của quá khứ, huyễn hoặc, của hiện tại và sự biến đổi… con người với sự bất định của quá khứ, sự mai một của kí ức, thông qua chính tác phẩm này, đã có cơ hội tìm lại vết tích, để được hiểu thêm về một nơi chốn chiếm giữ vị trí vô cùng quan trọng.

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng