Trích đăng

Cuộc du hành bắt đầu – Trích “Không giới hạn – Khám phá Ho’oponopono”

Ho’oponopono – phương pháp bí truyền của người Hawaii là một phương pháp giúp thanh tẩy vô thức, nơi tồn đọng những trở ngại. Nó giúp hóa giải những gì ẩn giấu khiến bạn không đạt được mục tiêu, bất kể là về sức khỏe, tài lộc, hạnh phúc hay những khía cạnh khác.

Published

on

Trích từ: Không giới hạn – Khám phá Ho’oponopono

Tác giả: Joe Vitale, Ihaleakala Hew Len

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 3.2020

Chi tiết tác phẩm

Ho’oponopono – phương pháp bí truyền của người Hawaii là một phương pháp giúp thanh tẩy vô thức, nơi tồn đọng những trở ngại. Nó giúp hóa giải những gì ẩn giấu khiến bạn không đạt được mục tiêu, bất kể là về sức khỏe, tài lộc, hạnh phúc hay những khía cạnh khác.

Phương pháp Ho’oponopono chỉ ra rằng tất cả mọi chuyện đều diễn ra bên trong ta. Chìa khóa để giải quyết mọi vấn đề được cất giữ ngay bên trong chính bản thể của mỗi người. Bằng cách thấu hiểu và áp dụng phương pháp này, bạn không chỉ nắm bắt được bản chất của mọi vấn đề mà còn biết được “chỗ” để xử lý nó. Và với chiếc chìa khóa ấy, mọi việc đều thực sự nằm trong tầm tay của chúng ta và mỗi người đều có thể tự giải quyết, không lệ thuộc vào ai hay bất kỳ một giới hạn nào, đúng như tựa đề cuốn sách: KHÔNG GIỚI HẠN.


Cuộc du hành bắt đầu

Dạo ấy là tháng 8 năm 2004, tôi đón khách và thuyết trình tại một gian hàng trong hội nghị thường niên của Hiệp hội Quốc gia Các nhà thôi miên. Tôi hào hứng với khách khứa, bầu không khí hội nghị và các hoạt động giao lưu cùng mọi người. Nhưng tôi không ngờ trong ngày hôm ấy có một sự kiện đã xảy đến làm thay đổi cuộc đời tôi.

Mark Ryan là người bạn cùng coi sóc gian hàng với tôi. Mark cũng là một nhà thôi miên trị liệu. Anh có đầu óc rất cởi mở, hoạt bát, đầy tò mò và háo hức khám phá cuộc sống cũng như tất cả những bí mật của nó. Chúng tôi thường trò chuyện với nhau hàng giờ đồng hồ về những người hùng trong ngành trị liệu, từ Milton Erickson cho đến các thầy lang ít người biết. Trong một lần trò chuyện như thế, Mark đã hỏi một câu làm tôi ngạc nhiên:

“Anh có bao giờ nghe nói đến một nhà trị liệu đã chữa lành cho bệnh nhân mà không hề gặp mặt chưa?”

Câu hỏi làm tôi khựng lại. Tôi đã nghe nói về các nhà trị liệu tâm linh và trị liệu từ xa, nhưng hình như Mark đang muốn nói chuyện gì khác.

“Ông ta là bác sĩ tâm lý, đã chữa lành cho cả một khoa tâm thần của bệnh viện gồm toàn tội phạm tâm thần, nhưng ông chẳng hề tiếp một bệnh nhân nào cả.”

“Vậy ông ta làm gì?”

“Ông ta dùng một phương pháp trị liệu của người Hawaii tên là Ho’oponopono.”

“Ho-oh-cái gì?” tôi hỏi.

Tôi đòi Mark lặp lại từ này khoảng chục lần. Tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến từ đó. Mark cũng chẳng biết gì hơn về câu chuyện hoặc phương pháp này để kể thêm cho tôi nghe. Quả thật tôi tò mò, nhưng phải thú nhận rằng tôi cũng có hoài nghi. Tôi hình dung chắc đây là một giai thoại thêu dệt gì đó. Chữa lành mà không gặp bệnh nhân à? Ừ, đúng vậy.

Mark kể tiếp cho tôi nghe câu chuyện sau:

“Tôi đã từng lui tới du lịch vùng núi Shasta ở California suốt 16 năm trời để tìm kiếm bản thân”, Mark thổ lộ. “Một người bạn ở đó đã cho tôi một tập sách nhỏ mà tôi không bao giờ quên. Sách in mực xanh trên giấy trắng. Nội dung là một bài báo về nhà trị liệu người Hawaii này và phương pháp của ông ta. Tôi đã đọc đi đọc lại bài báo nhiều năm qua. Bài viết không miêu tả nhà trị liệu đã làm gì, mà chỉ nói ông ta đã chữa lành cho mọi người bằng phương pháp của mình.”

“Bài báo đó đâu rồi?” tôi hỏi. Tôi muốn đọc bài báo.

“Tôi không tìm ra”, Mark nói. “Nhưng có điều gì đó thôi thúc tôi phải nói cho anh nghe. Tôi biết anh không tin tôi, nhưng tôi cũng bị cuốn hút như anh. Tôi cũng muốn biết thêm.”

Một năm sau chúng tôi lại nói chuyện tiếp. Trong thời gian gián đoạn đó, tôi đã sục sạo trên mạng nhưng không tìm được chút gì về bất kỳ một nhà trị liệu nào đã chữa lành mà không gặp bệnh nhân. Tôi tìm được thông tin liên quan đến trị liệu từ xa, tức trị liệu cho người khác mà không cần người kia hiện diện, nhưng tôi hiểu rằng nhà trị liệu người Hawaii đã không làm theo cách đó. Về sau tôi mới được biết chẳng có khoảng cách nào cả đối với hình thức trị liệu của ông ta. Quan trọng nhất là tôi chẳng biết đánh vần ra sao cái từ Ho’oponopono để tra cứu trên mạng, cho nên đành gác lại.

Thế rồi, vào năm 2005, trong hội nghị thường niên tiếp theo của ngành thôi miên, Mark lại nhắc đến nhà trị liệu.

“Anh đã tìm được thông tin gì về ông ta chưa?” anh ta hỏi.

“Tôi không biết tên ông ta, mà tôi cũng chẳng biết đánh vần cái từ ho-gì đó”, tôi giải thích. “Cho nên chẳng tìm được gì cả.”

Mark thuộc loại người đã định làm gì là phải làm cho bằng được. Vào giờ nghỉ giải lao, bọn tôi lôi máy tính ra, tìm cách kết nối mạng không dây và bắt đầu tìm kiếm. Không lâu sau chúng tôi tìm được trang web chính thức duy nhất về Ho’oponopono tại địa chỉ www.hooponopono.org. Tôi dò tìm và thấy một vài bài báo. Những bài này cho tôi một cái nhìn chung về những gì tôi sắp được biết.

Tôi tìm thấy một định nghĩa về Ho’oponopono: “Ho’oponopono là một phương pháp thanh tẩy năng lượng ô nhiễm bên trong ta để tạo điều kiện cho những tư tưởng, ngôn từ, hành vi và hành động xuất phát từ Siêu nhiên.”

Tôi chẳng hiểu câu đó nghĩa là gì, vậy nên tôi tìm đọc tiếp, và rồi tìm thấy câu này:

“Nói một cách đơn giản, Ho’oponopono nghĩa là “hiệu chỉnh” hoặc “chỉnh sửa lỗi”. Theo người Hawaii cổ xưa, lỗi phát sinh từ những tư tưởng bị suy nhiễm do ký ức đau khổ trong quá khứ. Ho’oponopono là phương cách để giải tỏa năng lượng của những tư tưởng hoặc lỗi lầm đau khổ này, yếu tố gây mất cân bằng và bệnh tật.”

Thật thú vị, vâng. Nhưng điều đó nghĩa là gì?

Trong khi sục sạo trang web này để tìm thông tin về nhà tâm lý trị liệu bí ẩn đã chữa bệnh mà không cần gặp bệnh nhân, tôi biết rằng có một hình thức Ho’oponopono cải biên mang tên Self I-Dentity through Ho’oponopono (SITH).

Tôi thật sự không hiểu nghĩa của khái niệm này. Mark cũng không. Chúng tôi là đôi bạn thích tìm hiểu. Máy tính xách tay là chú ngựa đưa chúng tôi rong ruổi vào miền đất mới hoang vu này. Chúng tôi đang tìm kiếm những câu trả lời và háo hức tiếp tục cuộc hành trình.

Chúng tôi tìm thấy một bài báo giúp giải thích vài điều:

Self I-Dentity Ho’oponopono
Nhận 100 phần trăm trách nhiệm cho các vấn đề của thân chủ

Bài viết của Tiến sĩ Ihaleakala Hew Len và nhà trị liệu bằng phương pháp mát-xa Charles Brown.

Trong các phương thức truyền thống để trị liệu và giải quyết vấn đề, nhà trị liệu khởi sự với niềm tin rằng vấn đề nằm bên trong thân chủ, chứ không phải bên trong anh ta. Anh ta tin rằng trách nhiệm của mình là giúp thân chủ khắc phục vấn đề. Liệu niềm tin này có dẫn đến xung đột mang tính hệ thống trong ngành trị liệu không?

Để trở thành một người giải quyết vấn đề một cách hiệu quả, nhà trị liệu phải sẵn sàng chịu trách nhiệm 100 phần trăm về việc đã tạo ra tình trạng có vấn đề ấy; tức là, anh ta phải sẵn sàng nhìn thấy rằng nguồn gốc của vấn đề là những tư tưởng sai lạc bên trong anh ta, chứ không phải bên trong thân chủ. Các nhà trị liệu dường như không bao giờ nhận ra rằng mỗi khi có một vấn đề là lại có mặt họ!

Việc chịu trách nhiệm 100 phần trăm về việc đã gây ra vấn đề cho phép nhà trị liệu chịu trách nhiệm 100 phần trăm để giải quyết nó. Dùng phương thức Ho’oponopono cải biên, một phương pháp để ăn năn, tha thứ và chuyển hóa do Kahuna Lapa’au Morrnah Nalamaku Simeona đưa ra, nhà trị liệu có thể chuyển hóa các tư tưởng sai lạc bên trong chính mình và bên trong thân chủ thành ra các tư tưởng TÌNH THƯƠNG hoàn mỹ.

Đôi mắt ngấn lệ. Hai khóe miệng hằn sâu nếp nhăn. “Tôi lo lắng cho con trai tôi”, Cynthia khẽ thở dài, “Nó lại dùng ma túy.” Trong khi chị ta kể lại câu chuyện đau khổ, tôi bắt đầu thanh trừ các ý tưởng sai lạc bên trong tôi đã gây ra vấn đề cho chị ta.

Khi các ý tưởng sai lạc bắt đầu được thay thế bằng những ý nghĩ yêu thương bên trong nhà trị liệu và bên trong người thân, họ hàng và tổ tiên của anh ta, chúng cũng được thay thế bên trong thân chủ và người thân, họ hàng và tổ tiên của chị ta. Phương pháp Ho’oponopono cải biên cho phép nhà trị liệu làm việc trực tiếp với Cội nguồn, nơi có thể chuyển hóa các tư tưởng sai lạc thành TÌNH THƯƠNG.

Đôi mắt đã khô ráo. Các nếp nhăn
quanh miệng đã dịu lại. Chị ta mỉm cười,
nét mặt nhẹ nhõm. “Tôi không biết tại sao,
nhưng tôi cảm thấy dễ chịu hơn.”
Tôi cũng không biết tại sao. Thật vậy.
Cuộc sống là một điều bí ẩn
ngoại trừ TÌNH THƯƠNG, cái luôn tỏ tường
hết thảy. Tôi chỉ biết buông xả, và cám ơn
TÌNH THƯƠNG đã ban mọi phúc lạc.

Khi giải quyết vấn đề bằng phương pháp Ho’oponopono cải biên, nhà trị liệu trước tiên phải dùng bản thể của mình, Trí của mình để kết nối với Cội nguồn, khái niệm mà những người khác gọi là TÌNH THƯƠNG hoặc Tạo hóa. Khi đã kết nối, nhà trị liệu sẽ thỉnh nguyện TÌNH THƯƠNG chỉnh sửa những tư tưởng sai lạc bên trong mình vốn đang gây ra vấn đề cho chính mình trước tiên và kế đến cho thân chủ. Lời thỉnh nguyện là một phương thức để ăn năn và tha thứ về phía nhà trị liệu – “Tôi rất tiếc về những tư tưởng sai lạc bên trong tôi đã gây ra vấn đề cho tôi và cho thân chủ, hãy tha thứ cho tôi.”

Để đáp lại lời thỉnh nguyện ăn năn và tha thứ của nhà trị liệu, TÌNH THƯƠNG khởi động phương thức huyền bí nhằm chuyển hóa các tư tưởng sai lạc. Trong phương thức hiệu chỉnh tâm linh này, TÌNH THƯƠNG trước tiên hóa giải các cảm xúc sai lạc đã gây ra vấn đề, bất kể đó là sự phẫn uất, sợ hãi, tức giận, trách cứ hoặc hoang mang. Trong bước tiếp theo, TÌNH THƯƠNG sẽ phóng thích năng lượng đã hóa giải từ các tư tưởng để trả chúng lại trạng thái hư vô, trống rỗng, giải thoát đích thực.

Khi các tư tưởng đã trống rỗng và không trói buộc, TÌNH THƯƠNG sẽ tự lấp đầy vào đó. Kết quả là gì? Nhà trị liệu được thanh tẩy và khôi phục trong TÌNH THƯƠNG. Khi nhà trị liệu được thanh tẩy, thân chủ và tất cả mọi yếu tố liên quan đến vấn đề cũng được thanh tẩy. Khi cảm xúc tuyệt vọng đến với thân chủ, đã có TÌNH THƯƠNG. Khi bóng tối đến trong tâm hồn họ, giờ đây đã có Ánh sáng TÌNH THƯƠNG để chữa lành. Khóa học Self I-Dentity Ho’oponopono giúp cho người ta nhận biết chính mình và biết cách từng bước giải quyết các vấn đề, và đồng thời được hồi phục trong TÌNH THƯƠNG. Khóa học mở đầu với một bài giảng miễn phí suốt hai giờ. Học viên tham dự sẽ nắm được tổng quan về cơ chế mà tư tưởng bên trong họ hiện thực hóa các vấn đề tâm linh, tâm thần, cảm xúc, thể chất, quan hệ và tài chính trong cuộc sống của họ và trong cuộc sống của người thân, họ hàng, tổ tiên, bè bạn, láng giềng và đồng nghiệp của họ. Trong khóa học cuối tuần, học viên được dạy để biết vấn đề là gì, vấn đề nằm ở đâu, làm thế nào để giải quyết các loại vấn đề khác nhau bằng cách áp dụng hơn 25 quy trình giải quyết vấn đề, và cách tự chăm sóc bản thân. Điều cốt lõi được nhấn mạnh trong khóa học là học viên phải chịu trách nhiệm 100 phần trăm về chính mình và về những gì xảy đến trong đời mình để giải quyết vấn đề một cách không cần cố gắng.

Điểm kỳ thú của phương pháp Ho’oponopono cải biên là mỗi lần ta lại được gặp con người mới của chính mình, và càng áp dụng ta càng trân trọng hơn nữa phương pháp tái hiện phép mầu của TÌNH THƯƠNG này.

Tôi vận hành cuộc sống và các mối quan hệ của tôi theo những sự hiểu biết sau đây:

  1. Vũ trụ vật chất này là một sự hiện thực hóa các tư tưởng của tôi.
  2. Nếu các tư tưởng của tôi mục ruỗng, chúng sẽ tạo nên một thực tại vật chất mục ruỗng.
  3. Nếu các tư tưởng của tôi hoàn mỹ, chúng sẽ tạo nên một thực tại tràn đầy TÌNH THƯƠNG.
  4. Tôi chịu trách nhiệm 100 phần trăm về việc đã tạo ra vũ trụ vật chất của tôi như hiện tại.
  5. Tôi chịu trách nhiệm 100 phần trăm về việc hiệu chỉnh những tư tưởng sai lạc đã tạo ra một thực tại bất ổn.
  6. Không có gì ở bên ngoài cả. Mọi thứ đều tồn tại dưới dạng tư tưởng trong tâm trí tôi.

Mark và tôi đọc bài báo và thắc mắc không biết tác giả nào là nhà trị liệu mà chúng tôi đang tìm: Charles Brown hay Tiến sĩ Hew Len này. Chúng tôi không biết. Chúng tôi không nói được. Và còn nhân vật Morrnah mà bài báo đề cập thì sao? Self I-Dentity Ho-oh-gì đó là cái gì?

Chúng tôi đọc tiếp.

Chúng tôi tìm được thêm vài bài báo nữa giúp hé lộ ánh sáng về những gì chúng tôi đang tìm kiếm. Có những câu tiết lộ về phương pháp này như: “Self I-Dentity Ho’oponopono nhìn mỗi vấn đề không phải như một sự thách đố mà như một cơ hội. Các vấn đề chỉ là ký ức về quá khứ được thị hiện ra để cho chúng ta cơ hội nhìn thấy bằng cặp mắt của TÌNH THƯƠNG và hành động xuất phát từ sự hứng khởi.”

Tôi tò mò nhưng không hiểu. Vấn đề có phải là “ký ức về quá khứ được thị hiện”? Phải không? Mấy tác giả này đang định giải thích cái gì vậy? Làm thế nào phương pháp ho-gì gì đó có thể giúp nhà trị liệu chữa lành cho người ta? Mà nhà trị liệu này là ai mới được?

Tôi tìm ra thêm một bài báo nữa, của một phóng viên tên Darrell Sifford, viết về cuộc gặp gỡ với người đã lập ra phương pháp ho’opo gì gì đó. Tên của bà là Morrnah và bà là một kahuna – tàng nhân, tức là người cất giữ các bí quyết. Những gì mà Morrnah làm để giúp chữa lành mọi người là “thỉnh nguyện với đấng sáng tạo thiêng liêng mà ta tự chọn thông qua phần Siêu nhiên bên trong mỗi con người… mà cũng chính là một phần của đấng sáng tạo thiêng liêng.”

May ra thì bạn hiểu được câu đó. Riêng tôi lúc đó không hiểu. Mark cũng chẳng hiểu. Rõ ràng bà Morrnah này đã thốt ra đôi điều, dưới dạng một lời cầu nguyện, và giúp người ta được chữa lành. Tôi cũng định sẽ tìm lời nguyện đó, nhưng hiện tại tôi đang theo đuổi một mục tiêu khác: tìm cho ra nhà trị liệu để học phương pháp của ông. Càng lúc tôi càng háo hức muốn tìm hiểu thêm và gặp gỡ nhà trị liệu dân gian này. Mặc dù đã đến giờ phải quay trở lại gian hàng trong hội chợ, Mark và tôi vẫn mặc kệ để tiếp tục tìm kiếm.

Dựa trên các bài báo và trang web, chúng tôi đoán nhà trị liệu mà chúng tôi muốn tìm kiếm tên là Ihaleakala Hew Len. Một cái tên ngộ nghĩnh. Tôi không biết đọc lẫn đánh vần ra làm sao. Tôi cũng chẳng biết tìm ông ta thế nào. Trang web này không có thông tin gì để liên lạc với ông. Mark và tôi cố gắng tra Google nhưng cũng chẳng tìm được gì. Chúng tôi bắt đầu thắc mắc liệu nhà trị liệu kỳ quặc này có phải là một nhân vật hư cấu, hay đã về hưu hoặc thậm chí đã khuất núi.

Tôi đóng laptop để quay trở lại gian hàng.

Nhưng cuộc phiêu lưu đã bắt đầu.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Cafe sáng