Book trailer

Bi cảm cái đẹp và cái chết trong tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê của văn hào Kawabata Yasunari

Published

on

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển của cố nhà văn Nhật Bản Kawabata Yasunari vừa được Phương Nam Book tái bản phát hành – khắc họa thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để đi đến giác ngộ về dục tính của chính mình và ý nghĩa của nhân sinh.

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Ông lão Eguchi 67 tuổi và nỗi lòng cô đơn trống trải

Tác phẩm kể về những lần ghé thăm của ông lão Eguchi, 67 tuổi, đến ngôi nhà đặc biệt với những trinh nữ xinh đẹp, tuổi chưa đến hai mươi, được gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, hoàn toàn khỏa thân trong tình trạng ngủ say. “Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây ‘giống như ngủ với một ông Bụt vô hình’. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được.”

Mỗi chương truyện là những lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà đặc biệt này. Mỗi lần, ông lại ngủ với những cô gái khác nhau. Màn đêm tối buông xuống, hơi thở êm dịu của những cô gái, gió thỉnh thoảng thổi qua mái nhà, tiếng sóng biển ầm ầm đập vào vách đá, Eguchi có những hồi tưởng, những hoài niệm khắc khoải khác nhau về những người đàn bà đã đi qua đời ông. Một ẩn dụ rõ ràng về sự tiếc nuối những văn hóa, những vẻ đẹp xưa kia ở Nhật Bản chỉ có thể gợi nhớ lại qua những khung cảnh, những hình ảnh tương tự, gần giống như thế.

Việc ngủ cạnh những cô gái trong ngôi nhà đặc biệt đã khiến tâm tưởng ông lão Eguchi tìm ra những cung bậc cảm xúc hết sức khác thường trong khi vẫn tôn trọng quy định của ngôi nhà. “Nàng ngủ, nàng không nói, nàng chẳng thấy khuôn mặt ông, chẳng nghe giọng nói ông… Và số phận ông nàng cũng chẳng mảy may biết đến”. Hơn hết, nhân vật chính cô đơn trong chính tâm thức của mình. “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông”.

Điểm cốt lõi của tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê bắt nguồn từ nhân vật chính tự chiêm nghiệm về chính con người thực sự của mình. Ở hành trình đó, tác giả Kawabata Yasunari đã tạo ra các cuộc gặp gỡ, sự quan sát của ông lão Eguchi về vẻ đẹp thể xác của các cô gái. Tác phẩm không chỉ đơn thuần tràn ngập những mỹ từ như “bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ…”, mà là sự suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai, lãng quên cuộc sống hiện tại. Phải chăng, hình ảnh của một đời sống xã hội đầy tổn thương khiến con người ta dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, nỗi tiếc nhớ xót xa những tháng ngày chưa sống mà đã qua đi.

Bi cảm cái đẹp và cái chết

Càng về sau, tác giả Kawabata Yasunari đi sâu vào bản thể và ký ức xa xăm nhất của nhân vật chính, Eguchi tìm lại được những cảm xúc tinh thần thuần túy. Ông lão tin rằng, ở trong ngôi nhà đặc biệt này, chắc có những lão già không những buồn rầu nhìn lại thời trai trẻ nay đã xa xưa mà còn tìm cách lãng quên những điều xấu xa, những việc độc ác đã làm dọc theo chiều dài cuộc đời họ. Nhìn từ khía cạnh này, Eguchi nhiều lần xuất hiện cảm giác rằng những người đẹp ngủ mê phải chăng là sự hiện thân của một vị Bụt nào đó, trong các truyền thuyết xưa cũ.

Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”Người đẹp ngủ mê chính là thứ cảm giác không thể nhầm lẫn mách bảo ta rằng Kawabata đã khéo léo sử dụng vẻ đẹp của ngôn từ cần thiết cho tác phẩm. Đỉnh điểm, ông đã khắc họa thành công cái đẹp của tấm thân trần – nó dường như trở thành biểu tượng cao quý của tính nữ vĩnh hằng, dù có được sở hữu trong tay thì vẫn muôn đời là bí mật.

Tác phẩm Người đẹp ngủ mê đã giúp cho tác giả Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”.

Một điểm đặc biệt, ở chương cuối, ông lão Eguchi trong cơn mộng mị nửa tỉnh nửa mê đã gợi nhớ về hình ảnh người mẹ của mình. Người đàn bà đầu tiên: “Mẹ”. Ý nghĩ này bất ngờ xẹt qua đầu ông như tia chớp. “Không phải mẹ thì ai vào đấy nữa”. Ý thức và lý trí ông đã tê liệt, và hình như nước mắt ứa ra từ khóe mắt già nua. Ông chỉ còn nhớ được đã mò mẫm tìm vú mẹ rồi lăn ra ngủ những ngày thơ ấu. Cũng giống như ông lão Eguchi nhớ về mẹ, đứa con dù lớn vẫn là con của mẹ. Có lẽ, cảm thức cô đơn trong chính tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu mồ côi từ năm 2 tuổi và cái tuổi trẻ thấm đẫm nước mắt của chính tác giả.

Sau tất cả, tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê đem lại những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo, đồng thời để lại nhiều khoảng trống, nhiều băn khoăn để độc giả tự khám phá bằng trình độ thưởng thức của mình. Người đẹp ngủ mê chứa đựng nhiều đối cực: tuổi già – tuổi trẻ, cái đẹp – cái chết, tội lỗi – trong sạch, tha hoá – nguyên sơ… Vì vậy, Kawabata Yasunari dẫn dắt độc giả qua tầng tầng lớp lớp ngữ nghĩa vận động không ngừng, tạo nên sự khác biệt trong cảm nhận khi đọc tác phẩm.

Nếu một vài độc giả cảm thức tác phẩm thanh hay tục đều xuất phát từ hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa. Đôi khi, độc giả sẽ có những cảm xúc kinh hãi vì những suy nghĩ xấu xa của ông già Eguchi. Hay bạn sẽ thương xót cho vẻ đẹp của thân xác những người đẹp ngủ mê đang bị làm ô uế… Song dù sao, người đọc cần một trí tuệ sáng suốt, thấy đúng, thấy rõ những sai lầm của nhân vật chính để từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mỹ của tác phẩm.

Trích đoạn

“Ngay vào thời điểm này trong năm, hai hay ba hoa mẫu đơn mùa đông nở dưới mặt trời ấm áp bên chân hàng rào cao bằng đá của một tu viện cổ ở Yamato. Những đóa trà hoa trắng nở trong vườn gần mái hiên ngôi nhà Shisendo. Vào mùa xuân, ra đời những chùm hoa đậu tía, những đóa đỗ quyên trắng ở thành phố Nara và ở Đền Trà Hoa ở Kyoto, những cánh hoa trà rụng đầy vườn.”

“Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin”.

“Dù say ngủ, nàng vẫn sống, nói cách khác, ý thức nàng bị vùi sâu trong giấc ngủ đậm đặc nhưng thân xác nàng vẫn sinh động trong nữ tính của mình.”

Về tác giả

Chân dung văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari năm 1969

Kawabata Yasunari (1899–1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học (năm 1968).

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

Giới thiệu sách

Mono no aware và tinh thần Phật giáo: Cái đẹp của sự tàn phai trong văn học Nhật Bản

Published

on

Trong không gian văn hóa Nhật Bản, hiếm có khái niệm nào lại thấm đẫm linh hồn dân tộc như mono no aware – cảm xúc mẫn cảm trước vẻ đẹp mong manh của vạn vật, và sự buồn bã dịu dàng trước sự tàn phai không tránh khỏi. Nhưng điều đáng chú ý là ẩn sau cảm xúc mang tính thẩm mỹ ấy lại là một cái nhìn rất gần với tinh thần Phật giáo – nơi mọi vật đều là vô thường, là khổ, là vô ngã. Tinh thần này không chỉ xuất hiện trong thơ cổ hay nghệ thuật truyền thống, mà còn hiện diện sâu sắc trong những tác phẩm văn học hiện đại – đặc biệt là nơi những nhà văn sống vào thời đại rối loạn như Dazai Osamu, Mori Ōgai hay Higuchi Ichiyō.

Trong bài viết này, Bookish sẽ đi sâu phân tích năm tác phẩm: Thất lạc cõi người, Tà dương, Nữ sinh (Dazai Osamu), Nhạn (Mori Ōgai), và Một mùa thơ dại (Higuchi Ichiyō) – để thấy rõ cách mà mono no aware hòa quyện với tinh thần Phật giáo, trở thành một kiểu thức mỹ học mang chiều sâu triết lý, không phải của sự tuyệt vọng, mà là của cái nhìn tỉnh thức trước lẽ vô thường của đời người.

Mono no aware – từ mỹ học đến minh triết

Trước hết, cần hiểu mono no aware không chỉ là một cảm thức thẩm mỹ, mà còn là một lối nhìn thế giới. Nó xuất phát từ việc ý thức được rằng mọi vật đều sẽ tàn phai, và từ đó khơi lên một cảm xúc buồn dịu, mềm mại, nhưng không hề bi lụy. Đây cũng chính là một biểu hiện văn hóa của tư tưởng vô thường (anicca) trong Phật giáo – rằng mọi hiện tượng đều sinh diệt, không gì trường cửu. Nhưng khác với thái độ tiêu cực hoặc trốn chạy, mono no aware khuyến khích con người chấp nhận, yêu thương, và sống sâu sắc trong khoảnh khắc hiện tại.

Chính vì thế, khi phân tích những nhân vật văn học chìm đắm trong u hoài, cô đơn, hoặc cảm giác tách biệt với thế giới, ta không nên vội gán cho họ một màu sắc bi quan tuyệt đối. Trái lại, trong sự đổ vỡ và tha hóa ấy, vẫn có những khoảnh khắc tỉnh thức, nơi cái đẹp của sự sống lặng lẽ hiện ra, dù chỉ trong một khoảnh khắc phù du.

Dazai Osamu – Trong cái chết là sự thấu hiểu cuộc sống

1. Thất lạc cõi người – Khi “vô thường” trở thành định mệnh

Nhân vật Yozo trong Thất lạc cõi người là hiện thân của một linh hồn lạc lối, sống giữa lo sợ bị phơi bày và khát vọng được yêu thương. Cuộc đời của Yozo như một chuỗi tan rã kéo dài – từ sự giả vờ vui tươi, đến những lần tự tử thất bại, đến cảnh cuối cùng bị tống vào nhà thương điên. Nhưng chính trong sự tan rã ấy, cái nhìn mono no aware hiện ra một cách rõ rệt: sự chấp nhận rằng Yozo không thể “hòa nhập” không phải là một lời phán xét, mà là một cách Dazai cho nhân vật được tồn tại đúng như bản thể mong manh của mình.

Câu văn nổi tiếng: “Bây giờ tôi đã trở thành một con người mất quyền làm người” không chỉ là lời tuyệt vọng, mà còn là một sự tỉnh thức. Yozo – kẻ đã chạm đáy cuộc đời – cuối cùng lại là người thấu hiểu rõ nhất bản chất vô thường, vô ngã của nhân dạng. Anh là kẻ nhìn thấu sự rỗng không trong cấu trúc xã hội, đạo đức, nhân cách. Dazai không tô điểm, không rao giảng, chỉ để nhân vật tồn tại trong đổ vỡ, và chính ở đó mà ý niệm Phật giáo được vang lên như một dư âm lặng lẽ: cái tôi không thực có, và khổ đau là lẽ tự nhiên.

2. Tà dương – Cái đẹp cuối cùng trong tàn phai

Mono no aware trong Tà dương không nằm ở cốt truyện, mà ở giọng văn – một thứ u buồn chảy như ánh chiều tà. Gia đình quý tộc đang tàn lụi dần, mẹ mất, em trai trượt dốc vì chủ nghĩa hư vô, còn Kazuko - người con gái – cố vùng vẫy để tự mình sống. Nhưng trong tất cả, Dazai vẫn dành những khoảnh khắc đầy thi vị: ánh nắng cuối chiều, một bông hoa quỳnh nở lúc đêm khuya, một mảnh thư gửi tình nhân trong hy vọng mong manh.

Những chi tiết ấy – như một đóa hoa nở rộ ngay trước khi tàn – chính là hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần mono no aware. Chúng không phủ nhận đau khổ, nhưng cũng không để nó che khuất hoàn toàn cái đẹp của kiếp người. Dazai, trong Tà dương, chạm gần hơn với từ bi và vô thường của Phật giáo: con người yếu đuối, nhưng cũng vì thế mà họ trở nên đáng yêu, đáng thương, và đáng được cứu chuộc.

3. Nữ sinh – Ý thức nữ tính và khoảnh khắc hiện tại

Khác với hai tiểu thuyết trên, Nữ sinh là một dạng nhật ký văn học, ghi lại những cảm xúc vụn vặt, rất nữ tính, của một cô gái tuổi mới lớn. Nhưng chính trong cái vụn vặt ấy lại hiện ra tinh thần mono no aware một cách rõ ràng: mỗi buổi sáng đi học, mỗi lần mưa rơi, mỗi cơn gió nhẹ thổi qua, đều được cô gái ghi lại như một điều thiêng liêng.

Cô gái trong Nữ sinh không hiểu được cuộc đời, không lý giải được bản thân, nhưng cô cảm nhận được cái đẹp trong hiện tại. Những điều cô viết ra không để phân tích, mà để giữ lại khoảnh khắc – một kiểu hành động rất gần với thiền quán (mindfulness). Ở đây, ta thấy tinh thần Phật giáo không còn là lý thuyết, mà là cảm nhận trực tiếp từ chính thân - tâm con người – điều mà Dazai đã diễn đạt một cách tự nhiên, không cần gượng ép.

Mori Ōgai – Cái nhìn tĩnh lặng trước chia lìa

Nhạn – Một cánh chim lặng lẽ giữa kiếp người

Nhạn là truyện ngắn kể về Otama – một phụ nữ trẻ, làm lẽ cho một người đàn ông giàu có, sống trong cô đơn. Nàng đem lòng yêu Okada, một sinh viên nghèo trọ gần nhà, nhưng tình cảm đó lặng lẽ, tuyệt vọng, và rồi lụi tàn khi Okada rời đi. Không có bi kịch ầm ĩ, không có xung đột gay gắt – chỉ là một cái nhìn lặng lẽ về một mối tình không thành.

Tựa đề “Nhạn” – loài chim di cư – là một ẩn dụ hoàn hảo cho tinh thần mono no aware: con chim đến rồi đi, tình cảm đến rồi tàn, tất cả chỉ như cơn gió thoảng. Nhưng điều khiến Nhạn gần với Phật giáo là thái độ của Otama: nàng không oán trách, không níu kéo, mà chấp nhận trong tĩnh lặng. Nàng không được “giải thoát” theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại thể hiện một phẩm chất từ bi – biết yêu mà không chiếm hữu, biết đau mà không gây khổ cho ai.

Giọng văn của Mori Ōgai tiết chế đến mức cực độ, gần như thiền định – không để cảm xúc tràn lấp câu chữ. Chính sự tiết chế ấy làm tăng hiệu ứng aware: cảm giác xót xa vì những gì không thể nói ra, không thể giữ lại, chỉ còn ngân vọng như tiếng nhạn bay qua bầu trời vắng.

Higuchi Ichiyō – Cái đẹp của tuổi thơ và sự trượt dốc

Một mùa thơ dại – Trẻ thơ cũng biết buồn

Tác phẩm của Higuchi Ichiyō thường xoay quanh những thiếu nữ nghèo, sống ở rìa xã hội, giữa thời kỳ Minh Trị chuyển giao. Trong Một mùa thơ dại, nhân vật Nobu – một cô bé mới lớn – bắt đầu cảm nhận những rung động đầu đời, những đau khổ mơ hồ, và sự chia lìa mà chính cô cũng chưa hiểu rõ.

Ichiyō không miêu tả những bi kịch lớn, mà dừng lại ở những cảm xúc thoảng qua: một lần bị mẹ trách oan, một lần nhìn bạn thân xa cách, một lần đứng dưới mưa không biết vì sao mình khóc. Những tình tiết ấy nhỏ bé, nhưng lại mang đậm tinh thần mono no aware, vì chúng nắm bắt được sự trượt nhẹ của tâm hồn – từ vô tư đến hoài nghi, từ thơ dại đến tổn thương.

Phật giáo hiện diện nơi đây như một bóng mờ: không phải là giáo lý, mà là sự thức tỉnh về bản chất khổ đau của đời người, bắt đầu từ rất sớm. Nhưng Ichiyō không viết để than vãn – bà viết để giữ lại những khoảnh khắc đó, như thể nếu ta chăm chú nhìn đủ lâu, ta sẽ thấy được cái đẹp dịu dàng trong cả những giây phút buồn nhất.

Khi văn học là thiền quán

Từ những tác phẩm kể trên, ta có thể nhận thấy rằng mono no aware không chỉ là một thái độ thẩm mỹ, mà còn là một lối sống, một cách nhìn thế giới – rất gần với tinh thần Phật giáo. Nó không biện hộ cho sự yếu đuối hay khổ đau, mà chỉ đơn giản nói rằng: đời là vậy – và nếu ta đủ tinh tế, ta có thể thấy được vẻ đẹp ngay cả trong sự mất mát.

Cả Dazai, Mori Ōgai, lẫn Ichiyō đều không giảng đạo, không kêu gọi vượt thoát, mà để nhân vật của họ ở lại trong cõi khổ, và chính trong sự ở lại ấy mà hiện ra vẻ đẹp nhân văn sâu xa. Họ không cho ta con đường giải thoát, nhưng cho ta cái nhìn biết thương – biết xót xa, biết im lặng, biết yêu những gì đang tàn phai.

Và đó chính là lý do vì sao văn học Nhật Bản – dù viết về những điều nhỏ bé, vụn vặt, thậm chí là tuyệt vọng – vẫn khiến người đọc thấy được một niềm an ủi mơ hồ: vì cái khổ đã được thấu hiểu, và cái đẹp vẫn còn trong từng hơi thở cuối cùng.

Hải Đăng

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Ngõ hồn hoang và dấu địa đàng trong tác phẩm “Chiếc Cặp” của Hiromi Kawakami

Published

on

Gửi Sài Gòn những tháng năm tuổi trẻ…

Hiromi Kawakami hẳn là một cái tên chưa mấy quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ngoài một truyện ngắn “Chuột chũi” được dịch và giới thiệu trong tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản hiện đại “Trăng cười”(*) thì hầu như không còn gì nữa. Nhắc đến văn học Nhật Bản, người ta chỉ nhớ đến Akutagawa Ryunosuke, Kawabata Yasunari, Dazai Osamu, Mishima Yukio và các tác giả hiện đại khác như Murakami Haruki, Murakami Ryu và Yoshimoto Banana… mà thôi. Điều đó thật là đáng tiếc vì Nhật Bản còn rất nhiều các nhà văn xuất sắc, đặc biệt là các nhà văn nữ mà một trong số đó là Hiromi Kawakami.

(*) Tuyển tập truyện ngắn Nhật Bản hiện đại, Nhiều tác giả, Hoàng Long tuyển chọn và dịch, Nxb Văn học và Công ty sách Phương Nam, 2016

Chân dung nhà văn Hiromi Kawakami

Trong các nhà văn nữ Nhật Bản hiện đại, chúng ta thấy cả Banana và Kawakami đều tinh tế dịu dàng và sắc sảo. Và chủ đề chính của hai tác gia này cũng là về tình yêu và nỗi cô đơn. Tuy đôi khi Kawakami lại viết về thân phận con người dưới góc nhìn khác khiến ta liên tưởng đến Kafka.

Như truyện “Chuột chũi” của nàng khiến ta nhớ đến “Hang ổ” của Kafka vậy. Lấy góc nhìn từ một con chuột đi thu lượm những con người vô dụng mất hết sức sống về hang ổ của mình, truyện tràn ngập yếu tố huyễn tưởng để mỉa mai về cuộc sống và bản chất con người. Nếu nói rằng nghệ thuật “dĩ huyễn độ chân” thì truyện ngắn này đã thực hiện được điều này gần như hoàn hảo. Qua góc nhìn của loài chuột chũi, loài người mới kỳ lạ, nhỏ bé, đáng thương, thường mất đi khí lực sống và sẵn sàng tự sát bất cứ lúc nào. Nhà văn nữ Rieko Matsuura đã nhận xét về tác phẩm của Kawakami:“Với Hiromi Kawakami, thế giới thường nhật diễn ra trơn trụi và buồn tẻ, nhưng nó sẵn sàng chuyển hóa tức khắc thành một thế giới khác, nơi mà con người trở thành những con vật, bị ám ảnh bởi sự gia tăng số lượng những kẻ đến sau, chúng ta có thể ví von đó như là một dạng âm bản của ”Alice ở xứ sở diệu kỳ”. Sự huyễn tưởng được đẩy lên tối đa bằng tất cả những yếu tố của cuốn truyện, từ kết cấu cho tới phong cách, từ những phép ẩn dụ cho tới kỹ thuật sử dụng các ký tự. Tất cả đều được lựa chọn một cách tỷ mỷ và tinh tế”. (*)

(*) Rieko Matsuura, Các nhà văn nữ Nhật Bản, một cuộc đảo chiều tinh tế, Dương Thắng dịch.

Tuy ít được độc giả Việt Nam biết đến nhưng Kawakami rất nổi tiếng, không chỉ riêng ở Nhật Bản. Nàng nhận được cả giải thưởng văn học Akutagawa và Tanizaki. Tác phẩm của nàng được dựng thành phim và được dịch ra mười lăm ngôn ngữ trên thế giới.

Chiếc cặp” là quyển tiểu thuyết đầu tiên của Hiromi được dịch ra Việt ngữ (*). Không như các tác phẩm huyễn tưởng khác của Kawakami, “Chiếc cặp” viết về đời sống thường nhật. Tác phẩm này đạt giải Tanizaki năm 2001.

(*) Hiromi Kawakami, Chiếc cặp, Bảo Khanh dịch, Nxb Phụ nữ, 2019.

Một câu chuyện tình của hai người không còn trẻ

Chiếc cặp” là chuyện tình giữa hai người trung niên, giữa thầy và trò. Một “Vòng tay học trò” phiên bản nữ. Các chương sách đặt như thơ gợi nhớ đến kiệt tác “Tiếng rền của núi”, “Ngàn cánh hạc” của Kawabata. Những tựa đề của các chương sách như “Thưởng hoa”, “Hái nấm”, “Chớp xuân”, “Trên đảo”, “Bãi bùn và giấc mơ kỳ lạ”…thơ mộng như những bài haiku và còn rất nhiều những bài haiku xen lẫn khiến ta tưởng mình lạc vào một không gian xa xưa nhưng vẫn giữ được tâm tình hiện đại. Sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại luôn là điểm mạnh của người Nhật Bản. “Mặt trăng và những viên pin”. Đó là chương mở đầu tác phẩm. Tsukiko, ba mươi bảy tuổi tình cờ gặp lại người thầy dạy mình môn ngữ văn thời trung học tại một quán rượu quen. Khi được thầy mời về nhà, Tsukiko phát hiện thầy có một sở thích kỳ lạ, sưu tầm những viên pin cũ. Hay đúng hơn là không nỡ vứt đi. Những viên pin còn chút ít năng lượng cuối cùng, lóe lên khi dùng máy thử. “Dấu hiệu bé nhỏ nhất của sự sống”, dù cuối cùng “chúng cũng tê liệt cả thôi”. Cũng như khởi đầu mối tình với Tsukiko là năng lượng sống cuối cùng của Sensei (先生), tức là “tiên sinh”, tên gọi kính trọng dành cho người lớn tuổi hay giáo viên của mình. Như chiếc que diêm một lần thắp sáng trong đêm, nuôi dài thêm chút tin yêu rồi cuối cùng tịch liêu chìm khuất nhưng cũng đủ mang theo chút hành trang kỷ niệm của đoạn đường cuối cùng.

Cả truyện là những cơn say. Ta đều biết là say tình. Nhưng Kawakami không nhắc đến điều đó. Cả Tsukiko là Sensei cũng không bao giờ thừa nhận về tình yêu dành cho nhau đến tận phút cuối cùng. “Tiếng yêu chưa lần nói mà đường yêu chân đã bước vào rồi” (Trúc Phương). Kawakami chỉ viết về những cơn say rượu. Không gian hẹn hò kéo dài từ quán bar này đến quán rượu kia. Dường như hai nhân vật chính lúc nào cũng phảng phất men say. Vì ai cũng biết đây chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi và có thể luôn là lần cuối cùng. Đối với Sensei mà nói, tâm tình của ông thật giống một câu nhạc của Trúc Phương “Ta bước chậm vào đường yêu, nên hay ưu tư thật nhiều, đôi khi hỏi lòng chuyện lâu dài yêu có vui không, mình cho nhau thời gian trắng đó, buồn hay vui đời xui bất chợt đâu ngờ”. Thời gian xin dành cho em trong cơn say, xin gục ngã dưới lớp rêu ngà huyền hoặc của ái tình. Và qua đó những tinh tế trong văn hóa ẩm thực của người Nhật được khắc họa lên rõ nét. Chúng ta biết rằng nấm Nhật ngon nhất không phải chỉ có matsutake mà còn có nấm iguchi vị khá mặn hay nấm shimeji murasaki có thể nướng ngay tại chỗ và thưởng thức. Tất nhiên rồi, cùng với rượu sake.

Tiểu thuyết, hay nói đơn giản là văn chương, thú vị hơn sách lịch sử. Vì không chỉ miêu tả văn hóa, diễn biến thời cuộc, ta còn hiểu được cả tâm tư của con người thời đại đó. Dù cách xa không và thời gian nhưng những tâm tình có thể đồng điệu một cách đáng kinh ngạc khi chúng ta cùng chung thân phận loay hoay tìm kiếm ảo ảnh trên đường mưa gió hồng trần.

Không phải ngẫu nhiên mà truyện Genji được xem là cẩm nang để hiểu về cuộc sống cung đình thời Heian và Genji, dù là hình mẫu giả tưởng vẫn được tác giả Sakaiya Taichi chọn làm một trong 12 người sáng lập ra nước Nhật(*) như là một chính khách thanh nhã mẫu mực và đầy chất quý tộc thời Heian.

(*) Sakaiya Taichi, Mười hai người lập ra nước Nhật, Đặng Lương Mô dịch, Nxb Chính trị quốc gia, tái bản 2017.

Ái tình hay ảo ảnh hư không?

Trong tác phẩm “Chiếc cặp”, sự biến chuyển tinh tế trong tình yêu của hai con người từng trải qua mưa gió với những cung bậc thăng trầm được gợi tả giữa một không gian đầy hương vị sake, thơ haiku, đi ngắm pháo hoa, hái nấm, thưởng trăng…Nếu chỉ đọc những quyển sách nghiên cứu lịch sử Nhật Bản hiện đại, chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được những sự tủi thân, giận hờn của những phận người nhỏ nhé. Như cơn ghen tuông biến thành hồn ma bóp cổ tình địch của phu nhân Rokujo trong truyện Genji hay cơn ghen đằm thắm dịu dàng của Tsukiko khiến nàng như thể một cô gái mới lớn đầy bướng bỉnh trong “Chiếc cặp”. Những chi tiết đó khiến ta cảm thấy thú vị và đồng cảm. Trong nhân vật nhiều khi phản chiếu chính bản thân chúng ta.

Như những kẻ say lang thang trong một không gian nồng nàn hương vị sake, tình yêu cũng chỉ là một cơn say dài. Tình yêu thì cổ xưa nhưng vẫn luôn mới mẻ và hiện đại. Vì cho dù xã hội phát triển đến đâu, tâm lý và bản chất con người ngàn năm vẫn thế. Do đó, Genji và Tsukiko cũng là những mẫu người tình muôn thuở.

Và hạnh phúc cũng như thể là pháo hoa. Đó là tên gọi của những phút giây ngắn ngủi gần như là một ảo ảnh.

Chiếc cặp của Sensei là vật bất ly thân lúc nào ông cũng mang theo bên mình. Gánh nặng của quá khứ vô hình. Có lần Tsukiko đã hỏi Sensei “cứ như cả thế giới của Sensei được nhét đầy trong đó?”. Sensei đã gật đầu.

Và chiếc cặp đó chứa đựng những gì. Chỉ có sự trống không.

Sự trống không kia như một công án của Thiền Tông. Công án “Vô” hay một kiểu “Vô môn quan” tình ái. Cửa nào cho nàng và cửa nào cho ta? Biết đâu bước vào, chỗ nào đi ra? Có chút gì đáng giá hay cuối cùng nói như nhà văn Uehara trong tác phẩm “Tà dương”: “Con đường tình ái cất công đi lại biến thành một vở hài kịch”?

Khi chúng ta hàng ngày đi qua những nỗi niềm buốt giá, chút ấm áp trong tim mình có lẽ là thứ sưởi ấm duy nhất. Chiếc cặp là hành trang ước mơ, là gánh nặng của tuổi tác và ký ức đồng thời là nhắc nhở của chính mình ngày xưa. Gánh nặng ghê gớm nhất của cuộc đời lại rất vô hình và dường như trống rỗng.

Cái hay của chi tiết công án “chiếc cặp trống không” này là ở chỗ tùy theo trải nghiệm của độc giả với những căn cơ và độ tuổi khác nhau lại cảm nhận sức nặng của sự trống không này một khác. Có thể nhẹ như lông hồng mà cũng có thể nặng như núi Thái Sơn. Buông được thì nhẹ mà chấp quá thì nặng ngàn cân. Tình yêu cũng vốn dĩ là thứ không thể nào cân đo đong đếm được. Nó vừa là quà tặng vừa là  đòn trừng phạt cho những lữ khách mải miết trên nỗi đau đường trần.

Sau khi Sensei qua đời, và chiếc cặp được con trai ông chuyển giao lại cho Tsukiko. Khi đó, nàng mới cảm nhận được sức nặng của sự trống rỗng đó.

Trong suốt cuộc tình, nếu như ta có thể gọi như vậy, hai người chỉ lặng lẽ đi uống cùng nhau, trò chuyện và đi du lịch. Chỉ duy nhất một lần ôm nhau ngủ. Khoảng ba năm sau Sensei qua đời. Tsukiko còn lại một mình. Những tâm hồn hoang vu đó đã trở lại hoang vu.

Như bài thơ của Seihaku Irako mà Sensei có lần dạy cho Tsukiko “Trong nỗi cô đơn tôi trôi dạt lẻ loi trên đường dài, áo choàng tả tơi không ngăn gió lạnh, và đêm nay bầu trời sáng tỏ, càng khiến nỗi lòng đau bội phần hơn”.

Đã từng cô đơn và khi cảm thấy quen thuộc với nỗi cô đơn ấy, tình yêu đến bất ngờ  vuốt ve cho lòng ấm. Khi chưa kịp quen mùi, tình vỗ cánh bay xa. Cô đơn trở lại đau hơn vạn thuở.

Nhưng tình yêu ban cho con người niềm an ủi. Tuy chỉ một thời gian ngắn ngủi, và dấu tình yêu có vẻ như còn xa cách địa đàng nhưng sương khói tình đã hơn một lần dâng kín ngõ hồn hoang.

Những đêm dài, tôi mở chiếc cặp của Sensei và nhìn vào bên trong, trống rỗng và hụt hẫng. Không có gì vương lại ngoài khoảng không tĩnh lặng muộn phiền”.

Một chiếc cặp di vật. Trống không. Nàng lấp đầy tâm tư và kỷ niệm của mình với Sensei vào đó. Chiếc cặp của tình yêu và hành trang kỷ niệm. Không gì có thể đong đếm và định giá được những nỗi niềm. Do đó, không có gì nhẹ hơn và nặng hơn hư không. Hư không cũng chính là ảo ảnh. Chúng ta đi tìm kiếm những ảo mộng tên gọi ước mơ, tình yêu. Nhưng cô đơn mới là thứ còn lại. Gánh nặng của ký ức đã được chuyển sang cho Tsukiko. Nhưng sống, xét đến cùng tận là việc tự an ủi mình, tự làm mình vui, còn lại ngoại vật tất thảy cứ vẫn sẽ mãi là ảo ảnh hư không.

Khi chúng ta còn lang thang trường mộng… có tên gọi cuộc đời.

Hoàng Long

Đọc bài viết

Book trailer

Phù thủy tranh giả mạo – Cơn cuồng Vermeer, Đức Quốc Xã và vụ lừa đảo nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX

Trong thế giới nghệ thuật đầy mê hoặc, dường như mỗi tác phẩm lại có một đời sống riêng biệt. Và Phù thủy tranh giả mạo – tác phẩm của Edward Dolnick vừa được Phương Nam Book liên kết xuất bản – đã mở ra một chương kỳ lạ về vụ bê bối nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX, làm rúng động cả giới chuyên môn lẫn người mộ điệu.

Published

on

Edward Dolnick, với ngòi bút sắc sảo của một nhà báo kỳ cựu, đã đưa độc giả vào hành trình khám phá cuộc đời và sự nghiệp của Han van Meegeren – một họa sĩ người Hà Lan cả gan thách thức cả thế giới nghệ thuật. Không chỉ đơn thuần ghi lại sự kiện, Phù thủy tranh giả mạo còn là một công trình khảo cứu sâu sắc về tâm lý con người, bản chất của nghệ thuật, và sự mong manh của danh tiếng cũng như niềm tin.

Han van Meegeren – Từ họa sĩ bị lãng quên đến “phù thủy” khét tiếng

Những năm 1930 – 1940, Châu Âu chìm trong bóng đen của chiến tranh và bất ổn chính trị. Giữa bối cảnh hỗn loạn đó, một cuộc chiến khác, thầm lặng hơn nhưng không kém phần kịch tính, đang diễn ra trong lòng giới nghệ thuật. Nhân vật trung tâm của cuộc chiến này là Han van Meegeren, một họa sĩ người Hà Lan có tài năng nhưng không được giới phê bình đương thời công nhận. Cảm thấy bị xem thường, Meegeren nuôi trong lòng một sự ấm ức, một khao khát trả thù giới chuyên môn đã quay lưng lại với ông. Suy nghĩ “nếu không nhận được sự tán thưởng của giới phê bình, thì việc biến họ thành lũ ngốc cũng khiến ta hả dạ” đã trở thành kim chỉ nam cho một kế hoạch táo bạo: giả mạo các tác phẩm của những bậc thầy hội họa, đặc biệt là Johannes Vermeer, một trong những danh họa bí ẩn và được tôn kính nhất của lịch sử nghệ thuật phương Tây.

Danh họa Vermeer là tác giả của nhiều bức họa nổi tiếng, trong đó có bức "The Girl with a Pearl Earring" (Cô gái đeo hoa tai ngọc trai) – một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa phương Tây, thường được mệnh danh là "Mona Lisa của phương Bắc".

Quyết định chọn Vermeer không phải là ngẫu nhiên. Vermeer, với số lượng tác phẩm còn sót lại ít ỏi và cuộc đời nhiều bí ẩn, trở thành một mảnh đất màu mỡ cho những kẻ muốn khai thác. Sự khan hiếm các tác phẩm đã được xác thực của ông, cùng với kỹ thuật vẽ bậc thầy và phong cách độc đáo, khiến bất kỳ phát hiện mới nào về Vermeer cũng đều gây chấn động. Meegeren đã nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật, chất liệu, phong cách của Vermeer, không chỉ để sao chép mà còn để sáng tạo ra những tác phẩm mới mang đậm dấu ấn của bậc thầy thế kỷ 17. Ông không chỉ muốn chứng minh rằng mình có thể qua mặt các chuyên gia, mà còn muốn tạo ra những tác phẩm mà chính họ phải trầm trồ thán phục, phải công nhận là kiệt tác trước khi sự thật phũ phàng được phơi bày. Cuốn sách của Dolnick đã lột tả một cách tài tình quá trình chuyển biến tâm lý phức tạp này, từ một nghệ sĩ bị tổn thương đến một kẻ giả mạo với tham vọng và sự tự tôn cao độ.

Hành trình của Meegeren không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các bức tranh giả. Ông còn phải đối mặt với thách thức làm cho chúng trông có vẻ cổ xưa, vượt qua sự kiểm định khắt khe của các chuyên gia hàng đầu. Dolnick mô tả chi tiết những nỗ lực phi thường của Meegeren trong việc tìm kiếm nguyên liệu cũ, tự chế tạo bột màu theo công thức cổ, và thậm chí phát triển các kỹ thuật để tạo ra những vết rạn nứt đặc trưng trên bề mặt tranh sơn dầu cũ. Ông sử dụng nhựa Bakelite để làm cứng lớp sơn, sau đó nung nóng để tạo hiệu ứng lão hóa, một phương pháp mà các chuyên gia thời đó chưa từng biết đến. Sự đầu tư công phu này cho thấy quyết tâm và trí tuệ của Meegeren, biến ông từ một kẻ lừa đảo đơn thuần thành một “phù thủy” thực sự trong lĩnh vực của mình để có thể hô biến những tấm toan mới thành những di sản hàng thế kỷ.

Cơn cuồng Vermeer và màn lừa dối cả giới chuyên môn đầy ngoạn mục

Thành công của Han van Meegeren trong việc giả mạo tranh Vermeer không chỉ nằm ở kỹ thuật tinh xảo mà còn ở khả năng nắm bắt tâm lý của giới chuyên môn và thị trường nghệ thuật. Những bức tranh Vermeer do ông tạo ra, đặc biệt là tác phẩm Bữa tối tại Emmaus, đã được các nhà phê bình, giám tuyển bảo tàng và nhà sưu tập danh tiếng nhất thời bấy giờ ca ngợi hết lời. Họ bị mê hoặc bởi sự tái khám phá một giai đoạn tôn giáo chưa từng được biết đến trong sự nghiệp của Vermeer. Edward Dolnick đã tài tình phác họa bức tranh toàn cảnh về cơn cuồng Vermeer mà Meegeren đã khơi mào – chính lòng khao khát sở hữu một kiệt tác, sự tự phụ của giới chuyên môn và áp lực phải tìm ra những điều mới mẻ đã vô tình tiếp tay cho kẻ giả mạo. Cuốn sách cho thấy, đôi khi, chính niềm tin và kỳ vọng của con người lại là điểm yếu lớn nhất để bị lợi dụng.

Một trong những con mồi nổi tiếng nhất của Meegeren chính là Hermann Goering – một trong những nhân vật quyền lực nhất của Đức Quốc Xã và cũng là một nhà sưu tập nghệ thuật tham lam. Goering đã đổi 137 bức tranh khác để sở hữu bức Chúa với người đàn bà ngoại tình, một tác phẩm “Vermeer” do Meegeren vẽ. Chi tiết này không chỉ cho thấy quy mô của vụ lừa đảo mà còn hé lộ một khía cạnh trớ trêu của lịch sử: một trong những kẻ tàn bạo nhất thế kỷ lại bị lừa bởi một họa sĩ mà hắn ta có lẽ chẳng bao giờ để mắt tới. Dolnick không chỉ kể lại câu chuyện này một cách hấp dẫn mà còn phân tích sâu hơn về động cơ của Goering và bối cảnh cướp bóc nghệ thuật trong Thế chiến II, làm tăng thêm kịch tính và chiều sâu cho tác phẩm. Phù thủy tranh giả mạo qua đó cũng đặt ra câu hỏi về giá trị thực sự của nghệ thuật khi nó bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực và lòng tham.

Sự thành công của Meegeren trong việc đánh lừa giới chuyên môn kéo dài nhiều năm, mang lại cho ông ta khối tài sản khổng lồ. Ông sống xa hoa, tận hưởng thành quả từ những “kiệt tác” của mình. Dolnick mô tả cuộc sống hai mặt của Meegeren: một mặt là người nghệ sĩ ẩn dật, miệt mài phục chế những tác phẩm cổ, mặt khác là một tay chơi hưởng thụ cuộc sống giàu sang. Điều đáng kinh ngạc là không một ai nghi ngờ, hoặc nếu có, những nghi ngờ đó cũng nhanh chóng bị dập tắt bởi uy tín của những chuyên gia đã xác thực các tác phẩm. Cuốn sách của Dolnick như một lời cảnh tỉnh về sự mong manh của hệ thống thẩm định nghệ thuật, khi mà danh tiếng và sự đồng thuận của số đông đôi lúc có thể che mờ đi sự thật. Ông đã làm nổi bật sự căng thẳng giữa kiến thức chuyên môn và khả năng bị đánh lừa, cho thấy ngay cả những bộ óc sắc sảo nhất cũng có thể mắc sai lầm.

Phiên tòa định mệnh, sự thật chấn động và những câu hỏi muôn thuở

Sau Thế chiến II, số phận của Han van Meegeren rẽ sang một hướng bất ngờ. Ông bị bắt giữ và đối mặt với cáo buộc phản quốc vì đã bán một “di sản quốc gia” – bức Chúa với người đàn bà ngoại tình của Vermeer – cho Hermann Goering, một kẻ thù của Hà Lan. Trước nguy cơ phải đối mặt với án tù nặng nề, thậm chí là tử hình, Meegeren đã đưa ra một lời thú nhận gây sốc: ông không bán kiệt tác của Vermeer cho Goering, mà thực chất, ông đã lừa Goering bằng một bức tranh giả do chính tay mình vẽ. Lời thú tội này ban đầu bị hoài nghi, bởi không ai có thể tin rằng những tác phẩm được ca tụng bấy lâu nay lại là đồ giả, và càng khó tin hơn khi một họa sĩ bị xem nhẹ tài năng lại có thể thực hiện một cú lừa ngoạn mục đến vậy. Edward Dolnick đã tái hiện lại không khí căng thẳng của phiên tòa một cách sống động, biến phòng xử án thành một sân khấu kịch tính.

Han Van Meegeren hầu tòa sau Thế chiến II, vào năm 1947 tại Hà Lan.

Để chứng minh lời nói của mình, Meegeren – dưới sự giám sát của tòa án – đã vẽ một bức “Vermeer” mới ngay tại phòng xử, mang phong cách và kỹ thuật y hệt những tác phẩm “Vermeer” đã từng gây chấn động trước đó. Màn trình diễn này đã thuyết phục được tất cả. Từ vị thế của một kẻ phản quốc, Han van Meegeren bỗng chốc trở thành một người hùng dân tộc trong mắt nhiều người dân Hà Lan. Họ hả hê khi biết rằng một người Hà Lan đã lừa được tên trùm phát xít khét tiếng. Sự thay đổi trong nhận thức của công chúng là một trong những khía cạnh thú vị nhất mà Dolnick khai thác, cho thấy ranh giới mong manh giữa tội ác và sự khôn ngoan, giữa sự lên án và lòng ngưỡng mộ, đặc biệt trong bối cảnh hậu chiến đầy biến động.

Phù thủy tranh giả mạo không chỉ dừng lại ở việc kể về một vụ lừa đảo nghệ thuật ly kỳ. Như tờ Washington Post nhận xét, cuốn sách này “đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.” Điều gì làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Liệu một bức tranh giả, nếu đẹp và lay động được cảm xúc người xem, có đáng bị coi thường? Tại sao con người lại dễ dàng bị đánh lừa bởi những câu chuyện hấp dẫn và những vẻ ngoài hào nhoáng? Edward Dolnick, qua câu chuyện của Han van Meegeren, đã khéo léo dẫn dắt độc giả đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi phức tạp này.

Trích đoạn

“Khi bạn chắc chắn rằng mình không thể bị lừa thì bạn càng dễ bị lừa.”

***

“Nếu những người yêu hội họa nhầm lẫn một bức tranh như vậy với tranh thật thì ai có thể trách họ được? Bất cứ người nào cũng có thể bị lừa, giống như bất kỳ ai cũng có thể nhầm lẫn giữa một cặp song sinh. Nhưng tranh giả của Van Meegeren lại cố tình thể hiện sự khác biệt với tất cả những bức Vermeer đã được biết đến, vậy mà chúng vẫn được ngưỡng mộ ngất ngây. Khi hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, và sau đó là hết người tham quan này đến người tham quan khác, mê mẩn nhìn thằng gù méo mó và dị dạng ở nhà thờ Đức Bà mà cứ tưởng mình đang ngắm vị thần Hy Lạp Adonis tuấn tú khôi ngô, thì chính điều đó là một bí ấn mà chúng ta cần phải khám phá.”

***

“Giả mạo là một tội ác kỳ lạ. Mua một chiếc đồng hồ Rolex giả ngoài phố với giá mười đô-la rồi một tuần sau nó ngừng chạy và mấy chiếc kim rơi rụng. Mua một bức tranh Picasso giả thì bức tranh giả vẫn sẽ làm đúng chức năng của nó – làm thích mắt người xem – giống y như tranh thật mà thôi. Ít nhất bức tranh giả sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó cho đến khi người chủ biết được sự ngu ngốc của mình. Thế là niềm vui sướng của ngày hôm qua trở thành nỗi nhục nhã của ngày hôm nav, và kiệt tác từng ngự trị trên lò sưởi cuối cùng lại bị đẩy xuống phòng tắm dành cho khách.”

Nhận xét của báo chí

“Dolnick đã tái hiện xuất sắc một trong những vụ lừa đảo nghệ thuật táo bạo nhất thế kỷ 20... Một cuốn sách hấp dẫn không thể bỏ qua.”

Boston Globe

“Edward Dolnick đã khơi trúng một mỏ vàng khi bàn đến sự táo bạo của quy trình giả mạo các tác phẩm nghệ thuật...”

The New York Times

“Một câu chuyện lịch sử cuốn hút… Phù thủy tranh giả mạo đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.”

Washington Post

Về tác giả

Edward Dolnick là nhà văn người Mỹ kiêm cây viết chủ chốt của tờ Boston Globe, nổi tiếng với các tác phẩm phi hư cấu (non-fiction) mang tính lịch sử, khoa học và điều tra, thường viết về nghệ thuật, khoa học, tội phạm và những câu chuyện có thật hấp dẫn. Ông có khả năng kể chuyện rất lôi cuốn, kết hợp giữa nghiên cứu sâu và văn phong truyện kể sống động. Hiện ông đang sinh sống tại Washington, D.C. cùng gia đình.

Các tác phẩm tiêu biểu: Madness on the Couch (1998), Down the Great Unknown (2001), The Rescue Artist (2005), The Forger’s Spell (2008), The Rush (2014), The Seeds of Life (2017), The Writing of the Gods (2021).

Kodaki

Đọc bài viết

Cafe sáng