Phía sau trang sách

Bắt trẻ đồng xanh: Nỗi sợ mơ hồ và sự cô độc ẩn trong thời niên thiếu hoang dại

“Bắt trẻ đồng xanh” đưa người đọc vào sự bấp bênh tuổi thiếu niên một cách gần gũi, như thể đang lôi tuột cái thằng nhóc/con nhóc nổi loạn hiếu thắng hoặc lạc lõng bơ vơ mà mỗi người từng có ra, để nhìn ngắm lại.

Published

on

Bắt trẻ đồng xanh là một quyển sách rất đẹp. Lớp bìa chỉ một màu xanh của cánh đồng lúa mạch. Không có giới thiệu tác giả, tác phẩm. Không có giới thiệu nội dung, đánh giá. Không gì cả. Dòng chữ tựa sách được in thì giống hệt những đứa trẻ đang đuổi bắt nhau. Tựa đề được lấy từ một lời thoại về điều duy nhất mà nhân vật Holden Caulfield muốn làm, khi cậu trả lời câu hỏi của em gái Phoebe. Cậu muốn ở một cánh đồng lúa mạch, nơi có hàng nghìn đứa trẻ đang chạy nhảy, và cứ thế, bắt lấy bất kỳ đứa nào lại gần cậu.

Caulfield yêu trẻ em. Để ý rằng dù cho cậu có hằn học, chửi tục và mỉa mai cuộc đời đến đâu đi nữa, thì ở những khi hồi tưởng lại cậu em đã mất Allie, hay cô em gái đáng yêu Phoebe, hay tình cờ gặp gỡ với bất kỳ đứa trẻ nào, cậu trở nên rất dịu dàng. Dịu dàng như đang nâng niu một báu vật. Trẻ em cũng là nguyên do cho một nỗi đau khôn nguôi trong cậu, là nguồn gốc của tất cả sự bấp bênh tuổi thiếu niên mà cậu đang hứng chịu. Allie, cậu em trai mà Caulfield hết mực yêu thương, đã chết vì bệnh máu trắng lúc cậu 13 tuổi. Khi ấy, Caulfield đã lấy tay không đập hết các cửa sổ gara trong nhà, từ đó không thể nắm chặt bàn tay phải như thường được nữa.

Câu chuyện bắt đầu vào một buổi tối ảm đạm tháng 12 tại trường Pencey, khi Caulfield trở lại khu túc xá và được thông báo bị đuổi học. Đây là ngôi trường thứ tư đuổi cổ cậu vì không hoàn thành chỉ tiêu môn học. Cậu ghé thăm một ông giáo già, người duy nhất cậu quí mến, rồi trở về phòng. Tại đây, Caulfield mâu thuẫn và dẫn đến một cuộc ẩu đả ngắn ngủi với thằng bạn cùng phòng (thực ra chỉ mình cậu bị đánh). Vì thế cậu quyết định xách đồ đạc cuốn gói ngay trong đêm, thay vì chờ đến thứ 4 tuần sau.

Bắt trẻ đồng xanh được dịch bởi Phùng Khánh và Phùng Thăng vào năm 1964, sau đó tái bản có sửa chữa vào năm 2008, chỉ lấy tên Phùng Khánh. Đây là quyển sách cuối cùng bà dịch trước khi về nước xuất gia. Phùng Khánh đã chuyển dịch thứ ngôn ngữ ba trợn, phóng khoáng của tác giả J. D. Salinger, hay của Caulfield một cách sáng tạo, gần gũi và đậm chất địa phương miền Bắc. Với những cụm từ như “các thứ”, “chết được”, “ả”, “bảnh”, “mạnh”… được sử dụng theo kiểu cách và lặp đi lặp lại.

Thứ ngôn ngữ có phần mỉa mai hằn học đó được Caulfield giữ nguyên từ đầu đến cuối, thứ ngôn ngữ của một cậu nhóc 17 tuổi ngổ ngáo nhìn đời, có phần khiến người ta khó chịu ở những trang đầu, lại tạo nên sự chân thực khó diễn tả bằng lời. Như thể người đọc đang ngồi trước mặt cậu và chuyện trò với cậu, thấy cậu vung tay vung chân diễn tả với ánh mắt nhiệt thành và cả cay nghiệt. Nếu phải so sánh với một nhân vật khác, Caulfield có được thứ sức sống của Jack Pozzi trong Nhạc đời may rủi của Paul Auster, nhưng miệng lưỡi thì của Chí Phèo. Bất cứ thứ gì cậu nhìn vào đều mang một vẻ xấu xí và “thối” đến mức không ngửi được, ngay cả những thứ cậu cảm thấy là đẹp thì nó vẫn cứ thối.

Quyển sách, tựa như một bản phim khác của Linklater trong bộ ba “Before”, không có cắt cảnh, không có nhảy thời gian, đơn giản là thuật lại từng phút giây trong ba ngày cuộc đời Caulfield. Tối thứ Bảy, cậu rời khỏi trường để đến New York trọ trong một khách sạn. Suốt ngày Chủ Nhật cậu lang thang ở thành phố này và gặp một vài người. Tối Chủ Nhật cậu về nhà thăm em gái và đến thứ Hai, cậu dự tính sẽ bỏ đi thật xa. Lối miêu tả của Salinger không cầu kỳ, không chi tiết, nhưng như đã nói, có được hơi thở nồng nặc của cuộc sống phả vào, qua lời lẽ của Caulfield. Người đọc như thể được ở bên cậu, đi cùng cậu, và nhìn thấy những cảnh tượng rõ rệt trên từng góc đường New York, trong từng quán bar, trong viện bảo tàng, trong công viên một buổi chiều mưa… gặp từng con người vừa bình thường vừa kỳ lạ qua con mắt cậu, và ngửi được cái cuộc sống ấy, cái cuộc sống khiến cậu chán ghét mang đầy đủ phong vị của những năm 50 nước Mỹ.

Giống như bất kỳ tác phẩm kinh điển nào khác, tương đồng nhất là Đồi gió hú, phải trải qua một hành trình câu chữ khó khăn lắm thì người đọc mới được tưởng thưởng. Ban đầu người ta có thể thấy ghét Caulfield, và không hiểu một đứa cá biệt lười biếng và có cái nhìn thiển cận, cũng như luôn chửi bới mọi thứ thì có gì đáng quan tâm. Nhưng rồi, Calinger bóc tách dần con người Caulfield, không phải bằng những gì cậu nghĩ về mình, không phải bằng những gì người khác nghĩ về cậu, mà bằng hành động, bằng những sự kiện, bằng chính những suy tư và hồi ức cậu có đối chiếu với hiện tại cậu đang trải qua. Đó là một cậu bé thông minh, sâu sắc và nhạy cảm. Một tâm hồn biết yêu thương, nhưng không biết tự bảo vệ mình trước sự giả dối xung quanh. Càng đi cùng cậu, người ta lại càng yêu quí cậu, và thấy rằng, cái việc cậu hậm hực với mọi thứ chỉ là để bảo vệ cho cái mong manh trong cậu.

Bắt trẻ đồng xanh đưa người đọc vào sự bấp bênh tuổi thiếu niên một cách gần gũi, như thể đang lôi tuột cái thằng nhóc/con nhóc nổi loạn hiếu thắng hoặc lạc lõng bơ vơ mà mỗi người từng có ra, để nhìn ngắm lại. Và thường chỉ có thằng nhóc/con nhóc nào đủ thông minh để tự vấn, đủ cảm xúc để đau đớn, và đủ chính kiến để tự tách biệt thì mới gặp quá nhiều khó khăn đến vậy. Người ta thấy đồng cảm với Caulfield bởi cả sự đáng yêu trẻ con của cậu, như ước mơ khá buồn cười được làm một kẻ “câm điếc” trong một thế giới giả dối và bộ tịch. Nhưng rồi lại giật mình tự vấn xem bản thân mình đã thỏa hiệp với thế giới ấy đến đâu rồi. Và nhận ra, cái ước mơ buồn cười ấy sao mà đáng quí, sao mà trong trẻo và đầy ánh sáng. Cũng như bản chất của Caulfield, một chàng trai tốt đến mức chưa được quan hệ tình dục vì cứ dừng khi tụi con gái bảo cậu dừng, và không thể qua đêm với cô gái điếm chỉ vì cô ta không thích nói chuyện và coi trọng chuyện ấy như cậu. Những điều ấy sao mà dễ thương, đến mức những lời lẽ chán đời u ám của cậu cũng không che lấp được.

Nhưng cái sự bấp bênh ấy cũng nguy hiểm, như bất kỳ mối nguy nào người ta có thể gặp phải khi trưởng thành. Trong một gia đình không thể mang đến cho cậu đủ sự quan tâm và yêu thương, suýt chút nữa cái ước mơ khờ dại kia đã đẩy cậu đến con đường giang hồ bụi đời. Không cần nói, ai cũng có thể đoán ra cậu sẽ chẳng có được cái sự “câm điếc” bình dị ấy, mà cuộc đời tàn nhẫn hơn sẽ nhấn chìm cậu, sẽ thụi cậu đau tưởng chết như thằng cha gác thang máy Maurice. Mà nếu cậu không đủ thích nghi, chỉ còn cách nhảy ra khỏi cửa sổ như một tên bạn vô danh nào đó. May mắn rằng, cậu đã được cứu bởi một đứa trẻ, có lẽ là một trong hàng nghìn đứng trẻ cậu muốn bắt lấy ở cánh đồng xanh, như bắt lấy cái ngây thơ thánh thiện mà cậu đang cố níu giữ và đau khổ nhận ra đang mất đi, đang bị thế giới giả dối ngoài kia dung hòa và phai nhạt đi. Như anh trai cậu, chấp nhận “đánh đĩ” ngòi bút một cách đau khổ ở Hollywood. Đứa trẻ đó là cô em gái đáng yêu Phoebe mà cậu luôn nhắc đến với sự trìu mến.

Sau lớp vỏ xù xì, thì Bắt trẻ đồng xanh là một tiểu thuyết trưởng thành xúc động. Cuốn tiểu thuyết duy nhất trong sự nghiệp của Salinger, bắt lấy được hoàn toàn cái nỗi sợ hãi mơ hồ và cô độc khi lớn lên. Ấy là khi Caulfield bật khóc trong vòng tay của Phoebe, sau một điệu vũ lúc nửa đêm với cô bé. Cái sự vỡ òa ấy sao mà thật quá, mà nghẹn lên đến tận cổ. Cái thật cũng là, người ta ở tuổi ấy chưa thể nghe theo được những lời khuyên đúng đắn nhưng xa lạ của những người đi trước, dù là những người người ta yêu mến đi nữa. Như ông giáo già đã nói với Caulfield những lời thông thái mà cậu chưa thể hiểu, và chưa thể nghe theo. Điều người ta cần ở cái tuổi ấy, là một sự quan tâm và tình yêu chân thành. Cái mà những cô gái không thể mang đến, như Sally, khi Caulfield trong một phút khao khát đã mở lòng với cô. Và chỉ có thể là một đứa trẻ vì sợ mất anh trai mà xách theo cả chiếc vali nặng trịch, và xin đi theo anh dù chẳng biết đi đâu về đâu. Đó là sự ngây thơ ấm áp có thể lấp đi lỗ hỗng trong lòng Caulfield gây ra bởi sự mất mát xưa kia, có thể giúp cậu bình tâm mà nghĩ lại, mà chọn lựa lại, có thể vượt qua cái điểm mấu chốt chông chênh giữa một người lớn và một đứa trẻ mà không bị chệch hướng. Bởi kiến thức, bởi kinh nghiệm, bởi tất cả vốn sống có thể bù đắp lại sau, như lời ông giáo, còn cái lỗ hỗng ấy thì chỉ có thể là một khoảnh khắc thôi. Ấy là khi cậu ngắm Phoebe trên con ngựa gỗ trong buổi chiều mưa.

Hẳn là không khó khăn cho người dịch lắm, nhưng tôi vẫn cứ khâm phục với cái tựa Bắt trẻ đồng xanh mà họ dịch ra từ The Catcher in the Rye. Cái tựa giàu sức gợi và mênh mang đến thế, quả thật cứ văng vẳng mãi trong đầu khi đã gấp sách lại, dù ấn tượng đầu tiên là hoàn toàn khác lạ với cái gai góc bắt gặp ở những trang đầu tiên. Thế rồi trang tiếp theo và trang tiếp theo, và đến với chúng ta là cả một thời thiếu niên hoang dại, dù ở đâu đi nữa, vẫn cứ chung một nỗi niềm như thể vừa mở mắt ra đã thấy chúng ta chỉ đơn độc trên thế giới này. Nhưng không phải thế đâu. Không phải thế đâu.

Bắt trẻ đồng xanh đã được dịch ra 65 thứ tiếng và mỗi năm có khoảng 20 ngàn ấn bản quyển sách được bán ra, giữ nguyên sức sống như khi xuất bản lần đầu hơn 60 năm về trước. Ban đầu nội dung và cách thể hiện của quyển sách gây ra rất nhiều tranh cãi và bị cấm đoán ở các trường học. Nhưng hiện nay, quyển sách đã được đưa vào chương trình giảng dạy trung học của nhiều nước nói tiếng Anh, và là một tác phẩm kinh điển nhận được sự yêu mến của nhiều thế hệ thiếu niên trên khắp thế giới.

Hết.

Phương Nam

Ảnh: Nhã Nam

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng