Phía sau trang sách

Bắt trẻ đồng xanh: Nỗi sợ mơ hồ và sự cô độc ẩn trong thời niên thiếu hoang dại

“Bắt trẻ đồng xanh” đưa người đọc vào sự bấp bênh tuổi thiếu niên một cách gần gũi, như thể đang lôi tuột cái thằng nhóc/con nhóc nổi loạn hiếu thắng hoặc lạc lõng bơ vơ mà mỗi người từng có ra, để nhìn ngắm lại.

Published

on

Bắt trẻ đồng xanh là một quyển sách rất đẹp. Lớp bìa chỉ một màu xanh của cánh đồng lúa mạch. Không có giới thiệu tác giả, tác phẩm. Không có giới thiệu nội dung, đánh giá. Không gì cả. Dòng chữ tựa sách được in thì giống hệt những đứa trẻ đang đuổi bắt nhau. Tựa đề được lấy từ một lời thoại về điều duy nhất mà nhân vật Holden Caulfield muốn làm, khi cậu trả lời câu hỏi của em gái Phoebe. Cậu muốn ở một cánh đồng lúa mạch, nơi có hàng nghìn đứa trẻ đang chạy nhảy, và cứ thế, bắt lấy bất kỳ đứa nào lại gần cậu.

Caulfield yêu trẻ em. Để ý rằng dù cho cậu có hằn học, chửi tục và mỉa mai cuộc đời đến đâu đi nữa, thì ở những khi hồi tưởng lại cậu em đã mất Allie, hay cô em gái đáng yêu Phoebe, hay tình cờ gặp gỡ với bất kỳ đứa trẻ nào, cậu trở nên rất dịu dàng. Dịu dàng như đang nâng niu một báu vật. Trẻ em cũng là nguyên do cho một nỗi đau khôn nguôi trong cậu, là nguồn gốc của tất cả sự bấp bênh tuổi thiếu niên mà cậu đang hứng chịu. Allie, cậu em trai mà Caulfield hết mực yêu thương, đã chết vì bệnh máu trắng lúc cậu 13 tuổi. Khi ấy, Caulfield đã lấy tay không đập hết các cửa sổ gara trong nhà, từ đó không thể nắm chặt bàn tay phải như thường được nữa.

Câu chuyện bắt đầu vào một buổi tối ảm đạm tháng 12 tại trường Pencey, khi Caulfield trở lại khu túc xá và được thông báo bị đuổi học. Đây là ngôi trường thứ tư đuổi cổ cậu vì không hoàn thành chỉ tiêu môn học. Cậu ghé thăm một ông giáo già, người duy nhất cậu quí mến, rồi trở về phòng. Tại đây, Caulfield mâu thuẫn và dẫn đến một cuộc ẩu đả ngắn ngủi với thằng bạn cùng phòng (thực ra chỉ mình cậu bị đánh). Vì thế cậu quyết định xách đồ đạc cuốn gói ngay trong đêm, thay vì chờ đến thứ 4 tuần sau.

Bắt trẻ đồng xanh được dịch bởi Phùng Khánh và Phùng Thăng vào năm 1964, sau đó tái bản có sửa chữa vào năm 2008, chỉ lấy tên Phùng Khánh. Đây là quyển sách cuối cùng bà dịch trước khi về nước xuất gia. Phùng Khánh đã chuyển dịch thứ ngôn ngữ ba trợn, phóng khoáng của tác giả J. D. Salinger, hay của Caulfield một cách sáng tạo, gần gũi và đậm chất địa phương miền Bắc. Với những cụm từ như “các thứ”, “chết được”, “ả”, “bảnh”, “mạnh”… được sử dụng theo kiểu cách và lặp đi lặp lại.

Thứ ngôn ngữ có phần mỉa mai hằn học đó được Caulfield giữ nguyên từ đầu đến cuối, thứ ngôn ngữ của một cậu nhóc 17 tuổi ngổ ngáo nhìn đời, có phần khiến người ta khó chịu ở những trang đầu, lại tạo nên sự chân thực khó diễn tả bằng lời. Như thể người đọc đang ngồi trước mặt cậu và chuyện trò với cậu, thấy cậu vung tay vung chân diễn tả với ánh mắt nhiệt thành và cả cay nghiệt. Nếu phải so sánh với một nhân vật khác, Caulfield có được thứ sức sống của Jack Pozzi trong Nhạc đời may rủi của Paul Auster, nhưng miệng lưỡi thì của Chí Phèo. Bất cứ thứ gì cậu nhìn vào đều mang một vẻ xấu xí và “thối” đến mức không ngửi được, ngay cả những thứ cậu cảm thấy là đẹp thì nó vẫn cứ thối.

Quyển sách, tựa như một bản phim khác của Linklater trong bộ ba “Before”, không có cắt cảnh, không có nhảy thời gian, đơn giản là thuật lại từng phút giây trong ba ngày cuộc đời Caulfield. Tối thứ Bảy, cậu rời khỏi trường để đến New York trọ trong một khách sạn. Suốt ngày Chủ Nhật cậu lang thang ở thành phố này và gặp một vài người. Tối Chủ Nhật cậu về nhà thăm em gái và đến thứ Hai, cậu dự tính sẽ bỏ đi thật xa. Lối miêu tả của Salinger không cầu kỳ, không chi tiết, nhưng như đã nói, có được hơi thở nồng nặc của cuộc sống phả vào, qua lời lẽ của Caulfield. Người đọc như thể được ở bên cậu, đi cùng cậu, và nhìn thấy những cảnh tượng rõ rệt trên từng góc đường New York, trong từng quán bar, trong viện bảo tàng, trong công viên một buổi chiều mưa… gặp từng con người vừa bình thường vừa kỳ lạ qua con mắt cậu, và ngửi được cái cuộc sống ấy, cái cuộc sống khiến cậu chán ghét mang đầy đủ phong vị của những năm 50 nước Mỹ.

Giống như bất kỳ tác phẩm kinh điển nào khác, tương đồng nhất là Đồi gió hú, phải trải qua một hành trình câu chữ khó khăn lắm thì người đọc mới được tưởng thưởng. Ban đầu người ta có thể thấy ghét Caulfield, và không hiểu một đứa cá biệt lười biếng và có cái nhìn thiển cận, cũng như luôn chửi bới mọi thứ thì có gì đáng quan tâm. Nhưng rồi, Calinger bóc tách dần con người Caulfield, không phải bằng những gì cậu nghĩ về mình, không phải bằng những gì người khác nghĩ về cậu, mà bằng hành động, bằng những sự kiện, bằng chính những suy tư và hồi ức cậu có đối chiếu với hiện tại cậu đang trải qua. Đó là một cậu bé thông minh, sâu sắc và nhạy cảm. Một tâm hồn biết yêu thương, nhưng không biết tự bảo vệ mình trước sự giả dối xung quanh. Càng đi cùng cậu, người ta lại càng yêu quí cậu, và thấy rằng, cái việc cậu hậm hực với mọi thứ chỉ là để bảo vệ cho cái mong manh trong cậu.

Bắt trẻ đồng xanh đưa người đọc vào sự bấp bênh tuổi thiếu niên một cách gần gũi, như thể đang lôi tuột cái thằng nhóc/con nhóc nổi loạn hiếu thắng hoặc lạc lõng bơ vơ mà mỗi người từng có ra, để nhìn ngắm lại. Và thường chỉ có thằng nhóc/con nhóc nào đủ thông minh để tự vấn, đủ cảm xúc để đau đớn, và đủ chính kiến để tự tách biệt thì mới gặp quá nhiều khó khăn đến vậy. Người ta thấy đồng cảm với Caulfield bởi cả sự đáng yêu trẻ con của cậu, như ước mơ khá buồn cười được làm một kẻ “câm điếc” trong một thế giới giả dối và bộ tịch. Nhưng rồi lại giật mình tự vấn xem bản thân mình đã thỏa hiệp với thế giới ấy đến đâu rồi. Và nhận ra, cái ước mơ buồn cười ấy sao mà đáng quí, sao mà trong trẻo và đầy ánh sáng. Cũng như bản chất của Caulfield, một chàng trai tốt đến mức chưa được quan hệ tình dục vì cứ dừng khi tụi con gái bảo cậu dừng, và không thể qua đêm với cô gái điếm chỉ vì cô ta không thích nói chuyện và coi trọng chuyện ấy như cậu. Những điều ấy sao mà dễ thương, đến mức những lời lẽ chán đời u ám của cậu cũng không che lấp được.

Nhưng cái sự bấp bênh ấy cũng nguy hiểm, như bất kỳ mối nguy nào người ta có thể gặp phải khi trưởng thành. Trong một gia đình không thể mang đến cho cậu đủ sự quan tâm và yêu thương, suýt chút nữa cái ước mơ khờ dại kia đã đẩy cậu đến con đường giang hồ bụi đời. Không cần nói, ai cũng có thể đoán ra cậu sẽ chẳng có được cái sự “câm điếc” bình dị ấy, mà cuộc đời tàn nhẫn hơn sẽ nhấn chìm cậu, sẽ thụi cậu đau tưởng chết như thằng cha gác thang máy Maurice. Mà nếu cậu không đủ thích nghi, chỉ còn cách nhảy ra khỏi cửa sổ như một tên bạn vô danh nào đó. May mắn rằng, cậu đã được cứu bởi một đứa trẻ, có lẽ là một trong hàng nghìn đứng trẻ cậu muốn bắt lấy ở cánh đồng xanh, như bắt lấy cái ngây thơ thánh thiện mà cậu đang cố níu giữ và đau khổ nhận ra đang mất đi, đang bị thế giới giả dối ngoài kia dung hòa và phai nhạt đi. Như anh trai cậu, chấp nhận “đánh đĩ” ngòi bút một cách đau khổ ở Hollywood. Đứa trẻ đó là cô em gái đáng yêu Phoebe mà cậu luôn nhắc đến với sự trìu mến.

Sau lớp vỏ xù xì, thì Bắt trẻ đồng xanh là một tiểu thuyết trưởng thành xúc động. Cuốn tiểu thuyết duy nhất trong sự nghiệp của Salinger, bắt lấy được hoàn toàn cái nỗi sợ hãi mơ hồ và cô độc khi lớn lên. Ấy là khi Caulfield bật khóc trong vòng tay của Phoebe, sau một điệu vũ lúc nửa đêm với cô bé. Cái sự vỡ òa ấy sao mà thật quá, mà nghẹn lên đến tận cổ. Cái thật cũng là, người ta ở tuổi ấy chưa thể nghe theo được những lời khuyên đúng đắn nhưng xa lạ của những người đi trước, dù là những người người ta yêu mến đi nữa. Như ông giáo già đã nói với Caulfield những lời thông thái mà cậu chưa thể hiểu, và chưa thể nghe theo. Điều người ta cần ở cái tuổi ấy, là một sự quan tâm và tình yêu chân thành. Cái mà những cô gái không thể mang đến, như Sally, khi Caulfield trong một phút khao khát đã mở lòng với cô. Và chỉ có thể là một đứa trẻ vì sợ mất anh trai mà xách theo cả chiếc vali nặng trịch, và xin đi theo anh dù chẳng biết đi đâu về đâu. Đó là sự ngây thơ ấm áp có thể lấp đi lỗ hỗng trong lòng Caulfield gây ra bởi sự mất mát xưa kia, có thể giúp cậu bình tâm mà nghĩ lại, mà chọn lựa lại, có thể vượt qua cái điểm mấu chốt chông chênh giữa một người lớn và một đứa trẻ mà không bị chệch hướng. Bởi kiến thức, bởi kinh nghiệm, bởi tất cả vốn sống có thể bù đắp lại sau, như lời ông giáo, còn cái lỗ hỗng ấy thì chỉ có thể là một khoảnh khắc thôi. Ấy là khi cậu ngắm Phoebe trên con ngựa gỗ trong buổi chiều mưa.

Hẳn là không khó khăn cho người dịch lắm, nhưng tôi vẫn cứ khâm phục với cái tựa Bắt trẻ đồng xanh mà họ dịch ra từ The Catcher in the Rye. Cái tựa giàu sức gợi và mênh mang đến thế, quả thật cứ văng vẳng mãi trong đầu khi đã gấp sách lại, dù ấn tượng đầu tiên là hoàn toàn khác lạ với cái gai góc bắt gặp ở những trang đầu tiên. Thế rồi trang tiếp theo và trang tiếp theo, và đến với chúng ta là cả một thời thiếu niên hoang dại, dù ở đâu đi nữa, vẫn cứ chung một nỗi niềm như thể vừa mở mắt ra đã thấy chúng ta chỉ đơn độc trên thế giới này. Nhưng không phải thế đâu. Không phải thế đâu.

Bắt trẻ đồng xanh đã được dịch ra 65 thứ tiếng và mỗi năm có khoảng 20 ngàn ấn bản quyển sách được bán ra, giữ nguyên sức sống như khi xuất bản lần đầu hơn 60 năm về trước. Ban đầu nội dung và cách thể hiện của quyển sách gây ra rất nhiều tranh cãi và bị cấm đoán ở các trường học. Nhưng hiện nay, quyển sách đã được đưa vào chương trình giảng dạy trung học của nhiều nước nói tiếng Anh, và là một tác phẩm kinh điển nhận được sự yêu mến của nhiều thế hệ thiếu niên trên khắp thế giới.

Hết.

Phương Nam

Ảnh: Nhã Nam

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng