Book trailer

Biên niên sử về khủng long – Từ tiến hóa tới diệt vong

Published

on

Với lối kể chuyện đầy cuốn hút, “Biên niên sử về khủng long” (Phương Nam Book phát hành) của nhà sinh vật học người Mỹ Steve Brusatte– đã thuật lại sống động lịch sử tiến hóa đáng kinh ngạc của thế giới khủng long.

Qua những nghiên cứu và phát hiện mới về khủng long, chúng ta lại biết thêm nhiều điều bí ẩn về gốc gác, sự phát triển ngoạn mục đến lạ lùng, hay khoảng thời gian loài sinh vật này tuyệt chủng do biến cố địa chất, để rồi cuối cùng là những di tích còn lại cho hậu thế.

Những mẩu hóa thạch kể chuyện quá khứ xa xưa

Trước khi hồi chuông báo tử vang lên, khủng long đã thống trị thế giới suốt hơn 150 triệu năm, trải qua những gian khổ trong quá trình tiến hóa để có được kích thước khổng lồ, khả năng trao đổi chất nhanh chóng… Nhưng rồi chỉ trong tích tắc, bầy đàn hùng mạnh này lại “kết thúc” và “biến mất” khỏi Trái đất, để lại vô số hóa thạch bị chôn vùi được tìm thấy sau này.

Thông qua những câu chuyện trong Biên niên sử về khủng long, tác giả Steve Brusatte – nhà nghiên cứu cổ sinh vật học thuộc thế hệ 8x –  đã đem đến cho độc giả lời giải đáp thỏa đáng về những sự kiện xảy ra khi loài khủng long biến mất, cũng như cách Trái đất tự chữa lành. Công cuộc này bắt đầu từ việc tác giả đi tìm những mẩu hóa thạch. Steve Brusatte cho biết: “Những mẩu hóa thạch có giá trị đặc biệt bởi nhờ nó, ta biết được các loài tuyệt chủng đã tương tác với nhau ra sao; di chuyển, tìm kiếm thức ăn như thế nào; thậm chí là cả nơi cư ngụ và cách thức sinh sản. Vì vậy, tôi đặc biệt quan tâm đến hóa thạch của khủng long và những loài động vật xuất hiện trước đó”.


Ở đoạn mở đầu của Biên niên sử về khủng long, Steve Brusatte đã giải thích cho độc giả hiểu rõ hơn những khái niệm về hóa thạch trong bối cảnh hiện tại, đồng thời anh cũng trình bày những suy tư được gợi mở khi cùng thầy cô và đồng nghiệp khám phá, nghiên cứu về những bộ xương khủng long bị vùi sâu dưới đất.

Đối với một nhà cổ sinh vật học, hóa thạch là bằng chứng không thể thiếu trong việc nghiên cứu khoa học; bởi lẽ, đây là những ghi chép duy nhất về sự sống và tiến hóa của các loài sinh vật đã tuyệt chủng. Các vết hóa thạch có thể là: vết chân, tay, đuôi mà khủng long cùng những động vật khác để lại trên bùn, cát khi săn bắt, kiếm ăn, lẩn trốn, giao phối, tương tác và đi lại mỗi ngày.

Với sự nghiên cứu tỉ mỉ của tác giả Steve Brusatte, độc giả sẽ biết thêm nhiều thông tin về các loài khủng long qua những miêu tả ngắn gọn, dễ hiểu. Những cái tên khủng long đem đến sự tò mò, thú vị cho người đọc có thể kể đến là: Khủng long Edmontosaurus (Khủng long mỏ vịt), Iguanodon (Khủng long răng kỳ nhông), Tyrannosaurus (Khủng long bạo chúa), Velociraptor (Khủng long có cánh)…


Ở những chương đầu tiên, Biên niên sử về khủng long là chuỗi câu chuyện xen kẽ giữa công việc nghiên cứu và ước mơ của Steve Brusatte; thông qua đó, người đọc có thể cảm nhận được tác giả đã xem việc gắn bó với ngành cổ sinh vật học như một lẽ sống. Từ thời thơ ấu, Steve Brusatte đã đam mê tìm hiểu kiến thức về khủng long khi sở hữu bộ sưu tập đá và thần tượng Paul Sereno – một nhà cổ sinh vật học. Và đến tuổi trưởng thành, với những kiến thức  đã được tiếp thu từ thế hệ đi trước, anh lại dấn thân lang bạt khắp mọi miền trên thế giới, đến những nơi như: mỏ đá Ba Lan, các bãi triều ở Scotland trong thời tiết giá lạnh, những tòa lâu đài ở Transylvania, hay các vùng hẻo lánh tại Brazil, hoặc ở Hell Creek (miền Tây Bắc Mỹ)… để đào xương khủng long, làm việc cùng những đồng nghiệp quốc tế và đặt tên cho hơn 15 loài mới, trong đó có khủng long “Pinocchio rex” (Qianzhousaurus) và Zhenyuanlong.

Chuỗi ngày tồi tệ cho hành tinh của loài người khi khủng long biến mất

Trong Biên niên sử về khủng long, có một sự kiện đóng vai trò bản lề cho toàn bộ tác phẩm, đó là thời điểm kỷ Phấn Trắng kết thúc bằng một tiếng nổ dữ dội, đặt dấu chấm hết cho loài khủng long. Khủng long sống trong ba niên đại địa chất gồm kỷ Tam Điệp, kỷ Jura, kỷ Phấn Trắng (thường được gọi chung là Đại Trung Sinh – Mesozoic). Trong đó, hai thời kỳ đầu chính là thời khủng long phát triển rực rỡ nhất, để rồi vào cuối giai đoạn kỷ Phấn Trắng, chúng đã hoàn toàn tuyệt chủng.

Tác giả Steve Brusatte đã thuật lại chi tiết những giả thuyết về nguyên nhân khủng long tuyệt chủng. Trong đó, có một nguyên nhân đáng chú ý là vụ va chạm giữa tiểu hành tinh với Trái đất ngoài khơi Mexico ở cuối kỷ Phấn Trắng cách đây 66 triệu năm. Từ đó, Steve Brusatte đưa ra nhận định rằng:“Sau vụ va chạm của tiểu hành tinh, có lẽ không còn thế lực nào có thể định đoạt được số phận của khủng long… Trước đó, khủng long đã có cơ hội vươn lên sau khi những ngọn núi lửa khủng khiếp cách đây 250 triệu năm gần như quét sạch mọi loài trên Trái đất. Và giờ thời thế đã thay đổi, những con T. rex, Triceratops, những con khủng long cổ dài… đã biến mất. Đế chế khủng long tuy đã kết thúc nhưng chúng vẫn tồn tại mãi mãi”.


Thông qua những cuộc khảo cứu, Biên niên sử về khủng long đã trở thành một bản tường thuật phong phú, sống động với nhiều chi tiết chằng chịt được tô đậm bằng những phát hiện mới từ chính tác giả. Từ các bằng chứng hóa thạch, Steve Brusatte đã vẽ ra một bức tranh toàn diện về sự sống và tiến hóa của các loài khủng long theo trình tự tuyến tính qua từng chương: Khủng long xuất hiện, Khủng long trỗi dậy, Khủng long trở thành một thế lực, Khủng long cất cánh, Khủng long biến mất…

Tác phẩm Biên niên sử về khủng longdễkhiếnngười đọc nhớ đến series Công viên kỷ Jura của đạo diễn Steven Spielberg bởi lối kể chuyện hấp dẫn đến mức một khi đã lật sách, độc giả sẽ không dễ dàng buông xuống vì đã bị cuốn theo những diễn biến mới khi Steve Brusatte tìm ra những mẫu vật như: xương, răng, trứng, tổ, lông… của khủng long. Tác giả kể lại rằng: “Sau khi hoàn thành việc khai quật ở Homer, chúng tôi tiếp tục khảo sát hàng ngàn cây số mét vuông vùng đất khô cằn, đơn điệu bao quanh Ekalala, cố gắng bắt đầu thật sớm để tránh cái nóng kinh hoàng. Chúng tôi đã tìm thấy rất nhiều răng của các loài khủng long ăn thịt nhỏ hơn, gồm cả những con Dromaeosaurid có cánh giống với Velociraptor, cũng như răng của một loài khủng long to cỡ con ngựa có tên Troodon…”

Vì được tiếp cận những ghi chép hoàn chỉnh, người đọc sẽ có cảm giác như được cùng Steve Brusatte trở về quá khứ để tìm hiểu tường tận đủ mọi loại khủng long từng xuất hiện trên Trái đất như: khủng long ăn thịt, khủng long ăn cỏ, hay những loài khủng long lớn nhất, dài nhất và hung bạo nhất. Đồng thời, Biên niên sử về khủng longcũng nêu bật được sự bền bỉ của nhà cổ sinh vật học trẻ người Mỹ khi dành cả thanh xuân cho một hành trình nghiên cứu trường niên về sự tiến hóa đến diệt vong của loài khủng long. Đặc biệt là, anh không ngại gian khó để đến thực địa tại các vùng đất xấu trong lưu vực San Juan (New Mexico, Hoa Kỳ) để theo dấu những con T.rex và Triceratops.

Với hơn 300 trang sách và hàng trăm thông tin lôi cuốn, Biên niên sử về khủng long giúp người đọc khám phá vô vàn điều kỳ diệu về hành tinh của loài người thời tiền sử.

“Có lẽ đã có hàng tỷ con khủng long sinh sống khắp nơi trên thế giới, từ thung lũng Hell Creek đến các hòn đảo ở châu Âu, chúng đã thức dậy vào sáng ngày hôm ấy cách đây 66 triệu năm. Và rồi, chỉ trong tích tắc, theo đúng nghĩa đen, mọi thứ đã kết thúc”.


Thông qua tác phẩm Biên niên sử về khủng long, Steve Brusatte không chỉ tìm kiếm lời giải đáp về sự diệt vong của loài khủng long mà còn đặt ra những câu hỏi đáng suy tư về loài người: “Con người luôn tự tin về vị trí của mình trong thế giới tự nhiên, ngay cả khi những điều chúng ta đang làm khiến hành tinh này thay đổi nhanh chóng. Việc này khiến tôi thấy bất an. Có một ý nghĩ cứ lởn vởn trong tâm trí khi tôi rảo bước trên sa mạc khắc nghiệt ở New Mexico, khi nhìn cảnh hóa thạch của khủng long đột ngột phải nhường chỗ cho hóa thạch của Torrejonia và các loài động vật có vú khác. Đó là câu hỏi liệu những gì đã xảy ra với loài khủng long, có thể xảy ra với loài người chúng ta vào một lúc nào đó hay không?”

Trích đoạn

“Khủng long đã phát triển tốt trong giai đoạn áp cuối của kỷ Phấn Trắng. Sự đa dạng tổng thể của chúng – cả về số lượng loài lẫn sự khác biệt về giải phẫu học – là khá ổn định. Sự đa dạng này không hề giảm dần trong suốt hàng triệu triệu năm và cũng không tăng lên một cách rõ rệt.”

***

“Một ngôi sao chổi hay một tiểu hành tinh – chúng ta chưa thể chắc chắn về điều này – đã va chạm với Trái đất ngay tại khu vực bây giờ là Bán đảo Yucatán của Mexico. Vật thể này có kích thước khoảng 10 kilomet, tương đương với kích thước của núi Everest, di chuyển với tốc độ 108.000 km/h, nhanh hơn một trăm lần so với tốc độ của máy bay phản lực. Khi lao vào hành tinh chúng ta, nó tấn công bằng sức mạnh của hơn 100.000 tỷ tấn thuốc nổ TNT, tương đương với năng lượng tỏa ra từ hàng tỷ quả bom hạt nhân.”

***

“Khi ấy tôi mới 19 tuổi và lần đầu tiên được trải nghiệm công việc đầy chất trinh thám là nhận diện các loài khủng long. Thật ngây ngấy quá đỗi. Tôi đã dành khoảng thời gian còn lại của mùa hè để xem xét kỹ lưỡng từng chiếc xương, đo đạc, chụp ảnh và so sánh xương của các loài khủng long khác.”

***

“Những con khủng long răng cá mập Carcharodontosaurus đã làm tôi mê mẩn. Chúng đã làm những việc mà chính lũ khủng long bạo chúa sẽ làm hàng chục triệu năm sau: Tăng kích thước cơ thể lên mức siêu to, trang bị vũ khí đi săn sắc bén, khủng bố mọi sinh vật bằng vị thế thống trị tuyệt đối trên đỉnh kim tự tháp thức ăn.”

Nhận xét của báo chí thế giới

“Một biên niên sử đưa người đọc vào chuyến khám phá ly kỳ ngược thời gian.”

National Geographic

“Cuốn sách cần-phải-có đối với các ‘fan’ hâm mộ loài bò sát cổ xưa sống trong thế giới đã bị diệt vong.”

 – Kirkus Reviews

“Brusatte đã khéo léo hồi sinh những bộ xương khủng long bằng việc chia sẻ  trải nghiệm cá nhân trong vai trò là một người săn hóa thạch trẻ tuổi cùng những con người mà anh đã gặp trong hành trình đó… Vẻ đẹp của cuốn sách còn nằm ở những câu chuyện về các nhà khoa học từng đào được những bộ xương này.” New York Time Book Review

“Đưa độc giả vào tour tham quan các hóa thạch mới cùng với những khám phá làm sáng tỏ câu chuyện tiến hóa của loài khủng long.” Science

“Cuốn sách sống động này đã giúp hồi sinh loài khủng long cho một thế hệ độc giả mới.” – The Times (London)

Về tác giả

Steve Brusatte – tác giả quyển sách “Biên niên sử về khủng long”

Steve Brusatte, sinh năm 1984, là nhà cổ sinh vật học người Mỹ chuyên theo đuổi và viết về khủng long. Anh lấy bằng Cử nhân tại Đại học Chicago, bằng Thạc sĩ Khoa học qua chương trình Học bổng Marshall tại Đại học Bristol, và cuối cùng lấy bằng Thạc sĩ Triết học và Tiến sĩ tại Đại học Columbia. Anh hiện giảng dạy ngành Cổ sinh vật học có xương sống tại Đại học Edinburgh, Scotland.

Brusatte đã đi khắp nơi trên thế giới, đào lên những bộ xương khủng long, làm việc cùng với nhiều đồng nghiệp quốc tế, đã đặt tên cho hơn 15 loài mới trong đó có khủng long ‘Pinocchio rex’ (Qianzhousaurus) và ‘Zhenyuanlong’. Anh từng viết một số sách cho thiếu nhi và người lớn, đáng chú ý nhất là sách khoa học thường thức Biên niên sử về khủng long (2018), được bình chọn là sách bán chạy nhất theo New York Times (USA), Sunday Times (UK), và Globe and Mail (Canada).

Book trailer

Phù thủy tranh giả mạo – Cơn cuồng Vermeer, Đức Quốc Xã và vụ lừa đảo nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX

Trong thế giới nghệ thuật đầy mê hoặc, dường như mỗi tác phẩm lại có một đời sống riêng biệt. Và Phù thủy tranh giả mạo – tác phẩm của Edward Dolnick vừa được Phương Nam Book liên kết xuất bản – đã mở ra một chương kỳ lạ về vụ bê bối nghệ thuật lớn nhất thế kỷ XX, làm rúng động cả giới chuyên môn lẫn người mộ điệu.

Published

on

Edward Dolnick, với ngòi bút sắc sảo của một nhà báo kỳ cựu, đã đưa độc giả vào hành trình khám phá cuộc đời và sự nghiệp của Han van Meegeren – một họa sĩ người Hà Lan cả gan thách thức cả thế giới nghệ thuật. Không chỉ đơn thuần ghi lại sự kiện, Phù thủy tranh giả mạo còn là một công trình khảo cứu sâu sắc về tâm lý con người, bản chất của nghệ thuật, và sự mong manh của danh tiếng cũng như niềm tin.

Han van Meegeren – Từ họa sĩ bị lãng quên đến “phù thủy” khét tiếng

Những năm 1930 – 1940, Châu Âu chìm trong bóng đen của chiến tranh và bất ổn chính trị. Giữa bối cảnh hỗn loạn đó, một cuộc chiến khác, thầm lặng hơn nhưng không kém phần kịch tính, đang diễn ra trong lòng giới nghệ thuật. Nhân vật trung tâm của cuộc chiến này là Han van Meegeren, một họa sĩ người Hà Lan có tài năng nhưng không được giới phê bình đương thời công nhận. Cảm thấy bị xem thường, Meegeren nuôi trong lòng một sự ấm ức, một khao khát trả thù giới chuyên môn đã quay lưng lại với ông. Suy nghĩ “nếu không nhận được sự tán thưởng của giới phê bình, thì việc biến họ thành lũ ngốc cũng khiến ta hả dạ” đã trở thành kim chỉ nam cho một kế hoạch táo bạo: giả mạo các tác phẩm của những bậc thầy hội họa, đặc biệt là Johannes Vermeer, một trong những danh họa bí ẩn và được tôn kính nhất của lịch sử nghệ thuật phương Tây.

Danh họa Vermeer là tác giả của nhiều bức họa nổi tiếng, trong đó có bức "The Girl with a Pearl Earring" (Cô gái đeo hoa tai ngọc trai) – một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa phương Tây, thường được mệnh danh là "Mona Lisa của phương Bắc".

Quyết định chọn Vermeer không phải là ngẫu nhiên. Vermeer, với số lượng tác phẩm còn sót lại ít ỏi và cuộc đời nhiều bí ẩn, trở thành một mảnh đất màu mỡ cho những kẻ muốn khai thác. Sự khan hiếm các tác phẩm đã được xác thực của ông, cùng với kỹ thuật vẽ bậc thầy và phong cách độc đáo, khiến bất kỳ phát hiện mới nào về Vermeer cũng đều gây chấn động. Meegeren đã nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật, chất liệu, phong cách của Vermeer, không chỉ để sao chép mà còn để sáng tạo ra những tác phẩm mới mang đậm dấu ấn của bậc thầy thế kỷ 17. Ông không chỉ muốn chứng minh rằng mình có thể qua mặt các chuyên gia, mà còn muốn tạo ra những tác phẩm mà chính họ phải trầm trồ thán phục, phải công nhận là kiệt tác trước khi sự thật phũ phàng được phơi bày. Cuốn sách của Dolnick đã lột tả một cách tài tình quá trình chuyển biến tâm lý phức tạp này, từ một nghệ sĩ bị tổn thương đến một kẻ giả mạo với tham vọng và sự tự tôn cao độ.

Hành trình của Meegeren không chỉ dừng lại ở việc tạo ra các bức tranh giả. Ông còn phải đối mặt với thách thức làm cho chúng trông có vẻ cổ xưa, vượt qua sự kiểm định khắt khe của các chuyên gia hàng đầu. Dolnick mô tả chi tiết những nỗ lực phi thường của Meegeren trong việc tìm kiếm nguyên liệu cũ, tự chế tạo bột màu theo công thức cổ, và thậm chí phát triển các kỹ thuật để tạo ra những vết rạn nứt đặc trưng trên bề mặt tranh sơn dầu cũ. Ông sử dụng nhựa Bakelite để làm cứng lớp sơn, sau đó nung nóng để tạo hiệu ứng lão hóa, một phương pháp mà các chuyên gia thời đó chưa từng biết đến. Sự đầu tư công phu này cho thấy quyết tâm và trí tuệ của Meegeren, biến ông từ một kẻ lừa đảo đơn thuần thành một “phù thủy” thực sự trong lĩnh vực của mình để có thể hô biến những tấm toan mới thành những di sản hàng thế kỷ.

Cơn cuồng Vermeer và màn lừa dối cả giới chuyên môn đầy ngoạn mục

Thành công của Han van Meegeren trong việc giả mạo tranh Vermeer không chỉ nằm ở kỹ thuật tinh xảo mà còn ở khả năng nắm bắt tâm lý của giới chuyên môn và thị trường nghệ thuật. Những bức tranh Vermeer do ông tạo ra, đặc biệt là tác phẩm Bữa tối tại Emmaus, đã được các nhà phê bình, giám tuyển bảo tàng và nhà sưu tập danh tiếng nhất thời bấy giờ ca ngợi hết lời. Họ bị mê hoặc bởi sự tái khám phá một giai đoạn tôn giáo chưa từng được biết đến trong sự nghiệp của Vermeer. Edward Dolnick đã tài tình phác họa bức tranh toàn cảnh về cơn cuồng Vermeer mà Meegeren đã khơi mào – chính lòng khao khát sở hữu một kiệt tác, sự tự phụ của giới chuyên môn và áp lực phải tìm ra những điều mới mẻ đã vô tình tiếp tay cho kẻ giả mạo. Cuốn sách cho thấy, đôi khi, chính niềm tin và kỳ vọng của con người lại là điểm yếu lớn nhất để bị lợi dụng.

Một trong những con mồi nổi tiếng nhất của Meegeren chính là Hermann Goering – một trong những nhân vật quyền lực nhất của Đức Quốc Xã và cũng là một nhà sưu tập nghệ thuật tham lam. Goering đã đổi 137 bức tranh khác để sở hữu bức Chúa với người đàn bà ngoại tình, một tác phẩm “Vermeer” do Meegeren vẽ. Chi tiết này không chỉ cho thấy quy mô của vụ lừa đảo mà còn hé lộ một khía cạnh trớ trêu của lịch sử: một trong những kẻ tàn bạo nhất thế kỷ lại bị lừa bởi một họa sĩ mà hắn ta có lẽ chẳng bao giờ để mắt tới. Dolnick không chỉ kể lại câu chuyện này một cách hấp dẫn mà còn phân tích sâu hơn về động cơ của Goering và bối cảnh cướp bóc nghệ thuật trong Thế chiến II, làm tăng thêm kịch tính và chiều sâu cho tác phẩm. Phù thủy tranh giả mạo qua đó cũng đặt ra câu hỏi về giá trị thực sự của nghệ thuật khi nó bị cuốn vào vòng xoáy của quyền lực và lòng tham.

Sự thành công của Meegeren trong việc đánh lừa giới chuyên môn kéo dài nhiều năm, mang lại cho ông ta khối tài sản khổng lồ. Ông sống xa hoa, tận hưởng thành quả từ những “kiệt tác” của mình. Dolnick mô tả cuộc sống hai mặt của Meegeren: một mặt là người nghệ sĩ ẩn dật, miệt mài phục chế những tác phẩm cổ, mặt khác là một tay chơi hưởng thụ cuộc sống giàu sang. Điều đáng kinh ngạc là không một ai nghi ngờ, hoặc nếu có, những nghi ngờ đó cũng nhanh chóng bị dập tắt bởi uy tín của những chuyên gia đã xác thực các tác phẩm. Cuốn sách của Dolnick như một lời cảnh tỉnh về sự mong manh của hệ thống thẩm định nghệ thuật, khi mà danh tiếng và sự đồng thuận của số đông đôi lúc có thể che mờ đi sự thật. Ông đã làm nổi bật sự căng thẳng giữa kiến thức chuyên môn và khả năng bị đánh lừa, cho thấy ngay cả những bộ óc sắc sảo nhất cũng có thể mắc sai lầm.

Phiên tòa định mệnh, sự thật chấn động và những câu hỏi muôn thuở

Sau Thế chiến II, số phận của Han van Meegeren rẽ sang một hướng bất ngờ. Ông bị bắt giữ và đối mặt với cáo buộc phản quốc vì đã bán một “di sản quốc gia” – bức Chúa với người đàn bà ngoại tình của Vermeer – cho Hermann Goering, một kẻ thù của Hà Lan. Trước nguy cơ phải đối mặt với án tù nặng nề, thậm chí là tử hình, Meegeren đã đưa ra một lời thú nhận gây sốc: ông không bán kiệt tác của Vermeer cho Goering, mà thực chất, ông đã lừa Goering bằng một bức tranh giả do chính tay mình vẽ. Lời thú tội này ban đầu bị hoài nghi, bởi không ai có thể tin rằng những tác phẩm được ca tụng bấy lâu nay lại là đồ giả, và càng khó tin hơn khi một họa sĩ bị xem nhẹ tài năng lại có thể thực hiện một cú lừa ngoạn mục đến vậy. Edward Dolnick đã tái hiện lại không khí căng thẳng của phiên tòa một cách sống động, biến phòng xử án thành một sân khấu kịch tính.

Han Van Meegeren hầu tòa sau Thế chiến II, vào năm 1947 tại Hà Lan.

Để chứng minh lời nói của mình, Meegeren – dưới sự giám sát của tòa án – đã vẽ một bức “Vermeer” mới ngay tại phòng xử, mang phong cách và kỹ thuật y hệt những tác phẩm “Vermeer” đã từng gây chấn động trước đó. Màn trình diễn này đã thuyết phục được tất cả. Từ vị thế của một kẻ phản quốc, Han van Meegeren bỗng chốc trở thành một người hùng dân tộc trong mắt nhiều người dân Hà Lan. Họ hả hê khi biết rằng một người Hà Lan đã lừa được tên trùm phát xít khét tiếng. Sự thay đổi trong nhận thức của công chúng là một trong những khía cạnh thú vị nhất mà Dolnick khai thác, cho thấy ranh giới mong manh giữa tội ác và sự khôn ngoan, giữa sự lên án và lòng ngưỡng mộ, đặc biệt trong bối cảnh hậu chiến đầy biến động.

Phù thủy tranh giả mạo không chỉ dừng lại ở việc kể về một vụ lừa đảo nghệ thuật ly kỳ. Như tờ Washington Post nhận xét, cuốn sách này “đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.” Điều gì làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Liệu một bức tranh giả, nếu đẹp và lay động được cảm xúc người xem, có đáng bị coi thường? Tại sao con người lại dễ dàng bị đánh lừa bởi những câu chuyện hấp dẫn và những vẻ ngoài hào nhoáng? Edward Dolnick, qua câu chuyện của Han van Meegeren, đã khéo léo dẫn dắt độc giả đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi phức tạp này.

Trích đoạn

“Khi bạn chắc chắn rằng mình không thể bị lừa thì bạn càng dễ bị lừa.”

***

“Nếu những người yêu hội họa nhầm lẫn một bức tranh như vậy với tranh thật thì ai có thể trách họ được? Bất cứ người nào cũng có thể bị lừa, giống như bất kỳ ai cũng có thể nhầm lẫn giữa một cặp song sinh. Nhưng tranh giả của Van Meegeren lại cố tình thể hiện sự khác biệt với tất cả những bức Vermeer đã được biết đến, vậy mà chúng vẫn được ngưỡng mộ ngất ngây. Khi hết chuyên gia này đến chuyên gia khác, và sau đó là hết người tham quan này đến người tham quan khác, mê mẩn nhìn thằng gù méo mó và dị dạng ở nhà thờ Đức Bà mà cứ tưởng mình đang ngắm vị thần Hy Lạp Adonis tuấn tú khôi ngô, thì chính điều đó là một bí ấn mà chúng ta cần phải khám phá.”

***

“Giả mạo là một tội ác kỳ lạ. Mua một chiếc đồng hồ Rolex giả ngoài phố với giá mười đô-la rồi một tuần sau nó ngừng chạy và mấy chiếc kim rơi rụng. Mua một bức tranh Picasso giả thì bức tranh giả vẫn sẽ làm đúng chức năng của nó – làm thích mắt người xem – giống y như tranh thật mà thôi. Ít nhất bức tranh giả sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó cho đến khi người chủ biết được sự ngu ngốc của mình. Thế là niềm vui sướng của ngày hôm qua trở thành nỗi nhục nhã của ngày hôm nav, và kiệt tác từng ngự trị trên lò sưởi cuối cùng lại bị đẩy xuống phòng tắm dành cho khách.”

Nhận xét của báo chí

“Dolnick đã tái hiện xuất sắc một trong những vụ lừa đảo nghệ thuật táo bạo nhất thế kỷ 20... Một cuốn sách hấp dẫn không thể bỏ qua.”

Boston Globe

“Edward Dolnick đã khơi trúng một mỏ vàng khi bàn đến sự táo bạo của quy trình giả mạo các tác phẩm nghệ thuật...”

The New York Times

“Một câu chuyện lịch sử cuốn hút… Phù thủy tranh giả mạo đã đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy về bản chất của nghệ thuật cũng như tâm lý dối lừa.”

Washington Post

Về tác giả

Edward Dolnick là nhà văn người Mỹ kiêm cây viết chủ chốt của tờ Boston Globe, nổi tiếng với các tác phẩm phi hư cấu (non-fiction) mang tính lịch sử, khoa học và điều tra, thường viết về nghệ thuật, khoa học, tội phạm và những câu chuyện có thật hấp dẫn. Ông có khả năng kể chuyện rất lôi cuốn, kết hợp giữa nghiên cứu sâu và văn phong truyện kể sống động. Hiện ông đang sinh sống tại Washington, D.C. cùng gia đình.

Các tác phẩm tiêu biểu: Madness on the Couch (1998), Down the Great Unknown (2001), The Rescue Artist (2005), The Forger’s Spell (2008), The Rush (2014), The Seeds of Life (2017), The Writing of the Gods (2021).

Kodaki

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Giữa mùi nồng rượu nếp, một mâm cỗ chay thanh tịnh – Tết Đoan Ngọ trong góc nhìn hiện đại

Published

on

Mỗi độ đầu hè, khi mận đỏ rộ chợ và rượu nếp thoảng mùi men, chiếc bánh tro giản dị lại xuất hiện trong căn bếp gia đình. Tết Đoan Ngọ trở về - không ồn ào, không phô trương - như một thói quen đẹp lặng thầm gắn bó với người Việt từ bao đời.

Trong guồng quay hiện đại, khi lối sống xanh và những giá trị nuôi dưỡng đời sống tinh thần dần trở thành lựa chọn phổ biến, nhiều người bắt đầu tự hỏi: liệu mâm cỗ ngày 5 tháng 5 âm lịch có thể “chuyển mình” theo cách nhẹ nhàng hơn - từ rượu nếp nồng đượm sang một mâm chay thanh đạm - mà vẫn giữ trọn tinh thần văn hóa của ngày Tết truyền thống?

Các cuốn sách ẩm thực Việt như Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt - 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay (Hồ Đắc Thiếu Anh, Nguyễn Hồ Tiếu Anh) hay Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt (Trần Lê Thanh Thiện), Thơm Thảo Xôi Chè - 30 Thức Quà Ngọt Ngào Hương Đồng Gió Nội (Trần Thị Hiền Minh) và thêm nhiều cuốn sách cùng chủ đề khác ra đời như một lời gợi ý: truyền thống có thể được gìn giữ, nhưng dưới một hơi thở mới - chậm rãi hơn, lành mạnh hơn, và chan chứa hơn tình thương với cơ thể, con người và tự nhiên.

Từ rượu nếp đến bánh tro - Khi ẩm thực là phương thuốc dân gian

Truyền thống Tết Đoan Ngọ thực chất bắt nguồn từ tư duy nông nghiệp và y học dân gian: thời điểm giao mùa, sâu bọ sinh sôi trong cơ thể con người cũng như ngoài đồng ruộng. Do đó, người Việt từ xưa tin rằng ăn rượu nếp lên men, trái cây đầu mùa chua, chát và bánh tro,... chính là cách “giết sâu bọ”, thanh lọc cơ thể.

Ở góc nhìn hiện đại, chúng ta nhận ra đây chính là một “liệu pháp thanh lọc tự nhiên”, thông qua các thực phẩm lên men, dễ tiêu và giàu enzyme. Câu chuyện của rượu nếp hay bánh tro cũng nhờ thế mà không còn đơn giản chỉ là một món ăn, mà còn là biểu tượng của mối quan hệ hài hòa giữa con người - tự nhiên - thân thể.

Mâm cỗ mới - Thanh tịnh từ tâm, lành mạnh từ món

Khi ngày càng nhiều người Việt lựa chọn lối sống thuần chay, đề cao sức khỏe và sự tỉnh thức trong ăn uống, mâm cơm ngày Đoan Ngọ cũng đang dần được “chuyển mình”. Không chỉ là chuyện thay thịt cá bằng rau củ, một mâm cỗ chay dịp này còn gói ghém tinh thần biết ơn, gắn bó với mẹ thiên nhiên, và quan tâm đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.

Lật giở từng trang sách của Ăn Xanh Sống Lành - 33 Món Chay Thực Dưỡng Thuần Việt, người đọc như được tham gia vào một cuộc chu du xuyên Việt khám phá ẩm thực kéo dài từ Bắc chí Nam. Dẫn dắt người đọc qua hành trình ẩm thực từ tàu hủ ky sốt mận Hà Giang đậm đà, cao lầu chay Hội An thanh nhẹ, đến chè thốt nốt An Giang ngọt ngào làm say lòng người, tác giả Trần Lê Thanh Thiện không chỉ giới thiệu hơn 30 món chay bổ dưỡng, mà còn gửi gắm cả sự tinh tế và tình cảm qua từng công thức, từng nguyên liệu mang đậm dấu ấn vùng miền. Cuốn sách là một bản giao hòa giữa tri thức ẩm thực phương Đông và tinh thần bản địa Việt. Tác giả khởi nguồn đi từ lòng biết ơn thiên nhiên với những sản vật quen thuộc như tiêu xanh Phú Quốc, khoai mỡ Long An, cơm dừa non Bến Tre, muối Bạc Liêu, tỏi đen Lý Sơn,... để tạo nên những món ăn dung dị mà đầy tính chữa lành.

Trong khi đó, Ahimsa – Ăn Chay Cho Tâm Thân An Lạc mang lại một cái nhìn nhẹ nhàng về ẩm thực chay như một lựa chọn chăm sóc đời sống tinh thần. Sách được biên soạn bởi các đầu bếp giàu kinh nghiệm, với nhiều gợi ý món ăn thanh đạm nhưng vẫn hài hòa sắc - hương - vị. Điều đặc biệt ở đây không phải kỹ thuật nấu ăn cầu kỳ, mà là thái độ sống chậm, sống an.

Thơm Thảo Xôi Chè lại đem đến một hướng tiếp cận đậm chất truyền thống mà vẫn không thiếu nét sáng tạo. Xôi và chè - hai món thường hiện diện trong cúng lễ Đoan Ngọ - được tác giả giới thiệu như những biểu tượng của sự đoàn viên và lòng thành. Với phong cách viết nhẹ nhàng, đầy chất thơ, cuốn sách như một nhịp cầu đưa người đọc trở về với căn bếp Việt trong những ngày lễ xưa, nơi từng hạt nếp, hạt đậu đều gửi gắm tình thân và văn hóa.

Cuối cùng, Thanh Tịnh Mâm Cỗ Việt – 30 Món Chay Lành Xưa Và Nay không chỉ đơn thuần là tuyển tập các công thức món chay mà còn là lời mời gọi trở về với nếp nhà truyền thống qua từng mâm cỗ cúng. Xuất phát từ tinh thần tri ân cội nguồn, cuốn sách đan cài kỷ niệm, bài học gia đình và những nguyên tắc bài trí mâm cỗ theo đúng lối xưa, từ đó gợi mở cách gìn giữ vẻ trang nghiêm, thanh tịnh nhưng vẫn ấm áp, gần gũi trong đời sống Việt hiện đại.

Truyền thống không cũ - Chỉ cần được thở theo nhịp mới

Việc chuyển từ mâm mặn sang mâm chay trong ngày Tết Đoan Ngọ không có nghĩa là bỏ đi truyền thống. Trái lại, đó là cách tiếp nối tinh thần nguyên bản: ăn những gì hợp mùa, có lợi cho cơ thể và dành không gian cho sự tĩnh lặng nội tâm. Một mâm cỗ Đoan Ngọ chay có thể không nhiều món, không đậm đà thịt cá, nhưng lại là lời nhắc nhở dịu dàng về cách sống chậm, lành và yên.

Tết Đoan Ngọ hôm nay - Nhẹ nhàng nhưng vẫn đậm hương sắc

Trong nhịp sống hiện đại dễ cuốn ta đi quá nhanh, Tết Đoan Ngọ nay không chỉ còn là dịp “diệt sâu bọ” mà còn trở thành một khoảng lặng để ta trở về - với ký ức, với tự nhiên, và với chính mình. Mỗi món ăn chay trên mâm cỗ hôm ấy là một sự lựa chọn tỉnh thức: nuôi tâm, dưỡng thân, giữ gìn môi trường, và tiếp nối một truyền thống sống hòa với tự nhiên.

Giữa mùa mận chín, bên chén cơm nếp lành, chiếc bánh tro thơm mộc mạc có thể chính là sợi chỉ kết nối ta với quá khứ - không phải bằng nghi thức rườm rà, mà bằng những gì gần gũi và chân thật nhất. Truyền thống không mất đi, chỉ cần được lắng nghe và thở theo nhịp sống hôm nay.

Ngữ Yên

Đọc bài viết

Giới thiệu sách

Nhật Bản 365 Ngày: Khi mỗi ngày là một mảnh ghép văn hóa

Published

on

Việc thể hiện tình cảm đối với thiên nhiên và cuộc sống từ lâu đã là một nét đẹp văn hóa trong lòng người Nhật. Dù đó chỉ là một hoạt động thường nhật hay một cánh hoa anh đào rơi xuống bên lề đường, thì trong con mắt tinh tế của mình, người Nhật luôn nhận ra những ý nghĩa sâu sắc ẩn sau những điều bình thường.

Qua những kinh nghiệm tích lũy từ nhiều năm nghiên cứu về văn hóa Nhật, tác giả Lê Thị Kim Oanh cùng họa sĩ minh họa Lăng Vi mang đến cho người đọc một cuốn sách mang đậm chất triết lý của con người và tự nhiên tại xứ sở mặt trời mọc, đó là Nhật Bản 365 ngày – Thông điệp kết nối thiên nhiên và cuộc sống.

Giao thoa giữa nét văn hóa truyền thống và cuộc sống hiện đại

Ở thời cổ đại, Nhật Bản tiếp thu nền văn hóa của Trung Hoa, nên hầu như mọi sinh hoạt thường ngày hay mọi hoạt động đều dựa trên hệ thống lịch âm. Nhưng kể từ khi bước vào thời đại Meiji (1868 -1912), xã hội Nhật Bản đã tiếp thu văn minh của người phương Tây và điều này thay đổi cuộc sống của người Nhật trên mọi phương diện.

Đến năm 1873 (năm Minh Trị thứ sáu), Nhật Bản chính thức loại bỏ hệ lịch âm truyền thống (lịch Thiên Bảo) và chuyển sang dùng lịch dương theo phương Tây. Quyết định này đã đánh dấu một bước chuyển mình vô cùng lớn trong công cuộc hiện đại hóa đất nước. Tuy đã thay đổi hệ lịch nhưng người Nhật vẫn giữ gìn sâu sắc những giá trị truyền thống trước đây của họ. Cho đến nay, ở đâu đó trong cuộc sống hiện đại của nước Nhật vẫn xuất hiện những khái niệm thời gian liên quan đến âm lịch như Ngũ tiết, và cùng với các khái niệm về dương lịch như 24 tiết khí. Tất cả đều hài hòa và xuất hiện theo một cách tự nhiên như vốn là một nét văn hóa truyền thống.

Tinh thần truyền thống của nước Nhật ở đây được thể hiện thông qua tình yêu đối với thiên nhiên, sự nhạy cảm với thời khắc giao mùa của vạn vật, sự tôn kính dành cho thần linh và sự trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc sống. Tất cả vẫn còn được lưu giữ và trở thành một nếp sống không thể thiếu của người Nhật. Bởi thế, sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới đã trở thành một bản sắc riêng biệt của Nhật Bản mà không phải quốc gia Á Đông nào cũng duy trì được trọn vẹn.

Càng đọc sách, càng hiểu về văn hóa của người Nhật

Nhật Bản 365 ngày là một cuốn sách độc đáo vì được trình bày như một cuốn lịch. Mỗi trang sách viết về một ngày trong năm, không phải để xem ngày tháng mà là để độc giả được chiêm nghiệm về văn hóa cũng như lối sống của người Nhật theo từng ngày.

Ngoài những ngày lễ trong năm, cuốn sách còn gợi mở cho người đọc về các khoảnh khắc đáng quý của những ngày tưởng chừng như rất đỗi bình thường. Dưới góc nhìn tinh tế của người Nhật, mỗi ngày với họ đều có ý nghĩa, thậm chí mang nặng chiều sâu văn hóa. Lật giở từng trang sách, bạn có thể tìm thấy một ngày dành riêng để trân trọng một loài hoa, điểm lại một nghi thức tôn giáo, hay một ngày chỉ nói về thời tiết hoặc lối sống thường nhật của con người tại xứ sở hoa anh đào.

Chẳng hạn, khi đọc đến trang về ngày 14 tháng 1, người đọc sẽ hiểu biết về người Nhật có niềm tin trong nghi lễ đốt trừ tà (hay còn gọi là “Sagicho”) có thể giải trừ bệnh tật và tai ương trong dịp năm mới. Hay đọc đến ngày 12 tháng 4, nội dung xoay quanh nguồn gốc chiếc bánh mì nhân đậu đỏ có tên gọi Anpan, là món ăn phổ biến trong cuộc sống bận rộn của người Nhật.

Một điểm thú vị khác có thể kể đến là ngôn ngữ Nhật Bản vốn nổi tiếng với khả năng chơi chữ và có thể tạo ra nhiều tầng nghĩa thông qua các ký tự. Điều này cũng thể hiện trong cuốn sách, khi các tên gọi của ngày tháng trong tiếng Nhật đều ẩn chứa những ý nghĩa đặc biệt và thú vị.

Chắc hẳn ai cũng đều biết chiếc bánh rán Dorayaki là món ăn khoái khẩu của chú mèo máy Doraemon, và khi đọc Nhất Bản 365 ngày, độc giả sẽ thích thú khi được biết người Nhật thường chọn ăn loại bánh này vào ngày 4 tháng 4 hằng năm. Theo quan niệm của họ, ăn loại bánh này sẽ mang đến sự hạnh phúc. Trong tiếng Nhật, khi gộp hai số 4 trong ngày tháng lại với nhau sẽ tạo nên âm chữ là “Shi-awase”, đồng âm với “Shiawase” có nghĩa là hạnh phúc. Cách chơi chữ đơn giản mà giàu ý nghĩa này rất phổ biến đối với người Nhật.

Càng đọc sâu từng trang sách là càng hiểu thêm về nét đẹp trong văn hóa của Nhật Bản và những thông điệp sâu sắc mà người đọc có thể chưa biết hoặc chưa để ý đến trước đây.

Thông điệp đơn giản mà chạm đến người đọc

Đúng như lời gửi gắm của tác giả Kim Oanh đã viết trong cuốn sách: “Thay vì đợi chờ, chúng ta hãy tận hưởng từng thời khắc, từng ngày, từng tháng, từ mùa nắng gắt cho đến mùa giá lạnh, để rồi thu mình lại và chuẩn bị sự trỗi dậy của vạn vật, cùng bước vào một mùa ấm áp mới.” Có thể nói, thông điệp đến từ cuốn sách Nhật Bản 365 ngày sẽ giúp độc giả sống chậm lại, tận hưởng cuộc sống hơn theo cách của người Nhật. Tinh thần chung của người dân đất nước này vốn là coi trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống, vậy nên học cách sống chậm nghĩa là là tập dần quan sát và cảm nhận từng giây từng phút trôi qua. Đây là lối sống lành mạnh, giúp mỗi người tìm thấy được sự an nhiên trong tâm hồn.

Thông điệp chính mang đúng tinh thần của cuốn sách nhất vẫn là sự kết nối con người với thiên nhiên. Với người Nhật, thiên nhiên không chỉ là bối cảnh sinh hoạt mà còn là nơi để con người tập dần cách sống thuận theo dòng chảy của thời gian, học cách lắng nghe bản thân và chuyển mình trước sự biến đổi giữa vạn vật tự nhiên. Người đọc sẽ cảm nhận rõ về cách người Nhật đã hòa nhịp cùng với thiên nhiên như thế nào qua các tiết khí, mùa hoa, hay những ngày lễ hội gắn với mùa vụ, tất cả đều được trình bày ngắn gọn mà không kém phần đặc sắc trong cuốn sách này.

Cuối cùng, cuốn sách còn khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn truyền thống giữa dòng chảy hiện đại. Dù đã bỏ lịch âm, người Nhật vẫn giữ nhiều tập tục lâu đời như một cách gìn giữ cội nguồn trong một thế giới ngày càng hiện đại hóa. Trong vai trò người đọc, đặc biệt là người trẻ, cuốn sách sẽ mang cho họ góc nhìn sâu sắc hơn về sự cân bằng giữa cái mới và cũ trong cuộc sống.

Quý Nghĩa

Đọc bài viết

Cafe sáng