Phía sau trang sách

‘Nhìn lại cuộc sống đẹp biết bao’ để thấy những điều tử tế

Những câu chuyện kể mà hai ông bà mong muốn thể hiện là những lát cắt vô cùng ngẫu nhiên ở mọi khoảnh khắc đời sống. Là nguồn năng lượng tích cực, đó là câu chuyện của những người lạ mà ta có thể gặp ở bất cứ đâu trong đời sống hàng ngày.

Published

on

nhin lai cuoc song dep biet bao review

Thời đại bùng nổ của instagram đã mang đến nhiều điều mới mẻ mà từ trước đến nay ta chưa bao giờ thấy được. Tính giản tiện (một giao diện vô cùng dễ chịu) và ngắn gọn (nếu muốn tăng tương tác trong một thời đại ai ai cũng bận rộn) là hai yếu tố căn bản nhất định hình nên tính instagrammable. Những dòng thơ ngắn gọn của Rupi Kaur cùng các nét vẽ sketch line-art như minh chứng rõ nhất cho làn sóng này. Quả thật instagram có một sức mạnh kỳ lạ, nó cuốn hút người đọc không chỉ về mặt câu chữ, mà còn hình ảnh, âm thanh, hiệu ứng và sự lan tỏa. Không chỉ Rupi Kaur chọn đó là nơi những vầng thơ của mình xuất hiện, tài khoản drawings_for_my_grandchildren của ông Chan và bà Marina tính đến nay đã có hơn 412 ngàn người theo dõi, kéo theo đó là sự quan tâm của những kênh truyền thông lớn là cũng một đại diện như thế.

Cũng như Rupi Kaur dùng instagram như cách chia sẻ, phơi bày những cảm xúc cá nhân của mình; ông Chan và bà Marina với những bức họa do chính ông vẽ và bà đề từ đã khơi gợi một sự thân quen của phần đông những người theo dõi. Những ‘tác phẩm’ của hai ông bà có thể nói dễ làm người ta không thể không nhớ, khi đó là những trải nghiệm ai cũng trải qua, và là câu chuyện không của riêng ai. Trên nền của những bức tranh, bà Marina đã diễn đạt lại những suy tư về các đứa cháu của mình. Động cơ ban đầu hình thành nên ý tưởng ấy cũng xuất phát từ việc mong muốn bọn trẻ có thể hiểu được ông bà chúng từng như thế nào, và do đó, đây là một cuốn album kỷ niệm của thời đại mới, nơi những nét vẽ phơi bày tình yêu, còn tính lưu trữ cũng như cảm xúc đi suốt dài hạn.

Điều nổi bật nhất trong hàng loạt những tác phẩm của hai ông bà đó là tình yêu thương vô cùng sâu đậm dành cho những đứa cháu của mình. Như bà chia sẻ, mỗi khi bế chúng trên tay, những đứa bé ấy đều ngay lập tức trở thành con cái của chính bà – những nhân dáng nhỏ mà bà từng bế rất lâu trước đây; nên vì thế, Nhìn lại cuộc sống đẹp biết bao không chỉ là những gửi gắm của ông bà đến các đứa cháu, mà suy rộng ra hơn, đó còn là tình cảm thiêng liêng nói chung của các ông bố, bà mẹ trên thế gian này. Ở đó thông qua giấc mơ, những điều nhỏ nhặt đẹp đẽ… bà khắc họa lại hành trình trưởng thành nhanh và ngọt lịm của những đứa trẻ, từ Lua còn nằm nôi cho đến Arthur và Allan đã có thể tự mình đến trường.

Trong những trò làm nũng, chạy bộ, đá bóng, lái xe scooter cùng nhau, những đứa trẻ ấy trở thành đại diện của những phép màu. Đó có thể là những khoảnh khắc nhỏ chơi bóng với bố, là khi nô đùa vào lúc mùa hạ bên bể bơi của nhà bạn ông… những kỷ niệm đẹp và lung linh diệu kỳ.

Độc giả không cần tưởng tượng hay cố truy sâu, trong từng câu chữ hay nét phác họa của hai ông bà ta đều thấy được điều ngầm ý này một cách chan chứa tình thương và đầy hy vọng. Bà Marina trong một bức vẽ từng hoài nghi về vai trò của mình trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ gia đình, nhưng rồi bà đúc kết lại, cây đuốc cầm trên nắm tay không phải là một vật chất, nó là ngọn lửa yêu thương muôn đời gìn giữ và sẽ truyền lại rất lâu về sau, giữa ông bà và các thế hệ của gia đình mình.

Quyển nhật ký của thời đổi mới

Việc lập ra tài khoản instagram ấy không chỉ dụng ý như tập album lưu giữ những kỷ niệm với con cháu mình, mà đó còn như một quyển nhật ký của thời đổi mới về những suy tư phản ánh ký ức một thời của họ.

Di cư đến Brazil vào năm 1981, hơn 30 năm sống xa Hàn Quốc nên tất cả những trăn trở của hai ông bà ta đều thấy được dấu ấn văn hóa phương Đông. Đó là những suy tư mang đậm tính thiền, về sự chuyển động, xoay chuyển của vòng thời gian; khi xuân đến cũng là xuân đang qua, hay thời gian đã đến trước khi ta kịp nhận ra. Trong nhân dáng của những suy nghĩ đậm tính nhân sinh ấy, những ký ức về người bố cho mình nằm lên người nhằm tránh cái rét mùa đông hay bài hát ru vào ngày Bố Mẹ gợi nhớ đến người mẹ của mình… Tất cả sâu sắc và đậm nét hơn mọi thứ trên đời.

Việc lập ra tài khoản instagram ấy không chỉ dụng ý như tập album lưu giữ những kỷ niệm với con cháu mình, mà đó còn như một quyển nhật ký của thời đổi mới về những suy tư phản ánh ký ức một thời của họ.

Những năm sống ở Hàn Quốc ấy còn là cảm giác mong muốn bé lại khi sống cuộc đời cùng những đứa cháu. Người ông mong nhớ Chiến dịch Ấm đỏ của Đôi quân Cứu tế vào mỗi mùa đông giúp đỡ người nghèo. Ông nhớ một thời vàng son khi mình lên đồ thật ngầu, hát vang nhạc pop để tìm yến oanh. Còn sâu sắc hơn là những ánh xạ của thế hệ này và thế hệ ông bà, của những cặp đôi thể hiện tình cảm trên những băng ghế, của nhóm BTS mà gợi nhớ họ về sự cuồng nhiệt với The Beattles một thời đã từng.

Song song những ký ức ấy, Brazil nơi hai ông bà gắn bó hơn 30 năm cũng hiện lên đầy sắc màu và sức sống. Đó là xứ sở của những con người bình dị, họ sống chan hòa và không thiệt hơn. Là nơi phong cảnh từ phía ngọn núi Jaraguá đang đứng sừng sững giữa một trận mây. Là nơi người ta yêu tỏi đến mức cho nó vào khi nấu cơm. Và cũng là nơi mọi người luôn giúp đỡ nhau, trong một thời khắc khi hai ông bà ngay cả một tiếng Bồ Đào Nha cũng không hề rõ; nhưng với đời sống chan hòa ấy, mọi sự đã đến và lớn dần lên trong trái tim của những con người tử tế.

Những câu chuyện kể mà hai ông bà mong muốn thể hiện là những lát cắt vô cùng ngẫu nhiên ở mọi khoảnh khắc đời sống. Là nguồn năng lượng tích cực, đó là câu chuyện của những người lạ mà ta có thể gặp ở bất cứ đâu trong đời sống hàng ngày. Là một bà cụ hoài nhớ tuổi trẻ trên chuyến tàu điện, là hai người lạ đầy vẻ lo toan, là người nghệ sĩ ngao du bossa nova, là người bán bắp và sự chan hòa không tính thiệt hơn, là những người nghèo nuôi chó như bạn tri kỉ hay cho mèo hoang ăn… Tất cả hiện lên trong từng nét vẽ của ông Chan là sự tử tế, lòng yêu thương và đúng như cuốn sách này mong muốn truyền tải, Nhìn lại cuộc sống thật đẹp biết bao.

Những câu chuyện kể mà hai ông bà mong muốn thể hiện là những lát cắt vô cùng ngẫu nhiên ở mọi khoảnh khắc đời sống.

Thế nhưng nó cũng thực tế và đầy cảm hứng với mối nghi ngại của đời sống hiện nay, với bụi mịn, ô nhiễm; với đô thị hóa và những khoảng trời sao đã bị chen lấn và thu nhỏ lại. Ở đó những con người liều lĩnh, đầy vô tâm đẩy tê giác Sudan đến lúc tuyệt diệt. Họ giam cá voi sát thủ làm vật giải trí, họ thấy từng đàn cá voi vào biển tự sát vì rác thải nhựa tràn ngập trong dạ dày chúng… Nhưng họ không biết rồi đến một ngày mình cũng sẽ giống những con vật đó, như Tilikum bị giam ở nơi hồ bơi, họ bị cách ly khỏi đời sống này, khi mùa xuân đến không thể đạp xe, mà còn ngược lại được khuyên ở nhà. Đó không chỉ là hiện thực đời sống, đó còn là những lo lắng cho thế hệ sau đầy bấp bênh và thiếu kết nối.

Với Nhìn lại cuộc sống đẹp biết bao, qua những nét vẽ của ông Chan và lời kể chuyện của bà Marina; những bài học về lòng biết ơn, về sự chia sẻ và lòng cảm thông, về vẻ đẹp của tự nhiên và việc tận hưởng mọi thứ xung quanh thay vì chỉ riêng nhìn về phía trước… đã hiện lên một cách rõ ràng và đầy sinh động. Đó tuy là lát cắt nhỏ của những khoảnh khắc đời thường, thế nhưng nó khiến người ta tốt hơn, cảm thấy hòa nhập hơn và trên hết là cái đẹp sẽ luôn lan tỏa.

Trong một bức ảnh mà bà muốn ông vẽ cho các cháu những chiếc cầu vồng tràn ngập hy vọng; nhưng không đâu xa, đây chính là hy vọng mới mà mỗi một người có thể tìm thấy. Đầy cảm xúc và truyền cảm hứng trong một thời đại của bận bịu, phớt lờ và thiếu kết nối.

Hết.

Chiêu Dương.

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng