Trích đăng
Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Trích đăng
Những ngày cuối cùng trước sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn – Trích “Rời khỏi Sài Gòn”

Trích từ: Rời Khỏi Sài Gòn - Hành Trình Một Nhân Viên Ngân Hàng Đưa 113 Thường Dân Rời Đi Vào Tháng 4/1975
Tác giả: Ralph White
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 06.2025
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Ngoài những hồi ức của tôi về các sự kiện, nguồn tư liệu chính cho cuốn sách này là một bản ghi nhớ dài chín trang mà tôi đã viết vào tháng 5/1975 gửi đến James Bish, phó chủ tịch cấp cao của Ngân hàng Chase Manhattan đặc trách khu vực Đông Nam Á, mô tả khá chi tiết những sự kiện tạo nên cuốn sách này. Khi mô tả các sự kiện, tôi tuân thủ những quy ước của hồi ký, vốn đòi hỏi phải đạt tiêu chuẩn cao về tính trung thực, đồng thời cho phép quyền sáng tạo trong việc tái hiện những cuộc hội thoại. Những câu từ trong dấu ngoặc kép là những lời đã được nói ra trước mặt tôi. Những sự kiện liên quan ở đây hoàn toàn đúng sự thật.
ĐIỆN TÍN CUỐI CÙNG VỚI NGÂN HÀNG CHASE MANHATTAN, CHI NHÁNH SÀI GÒN
VĂN PHÒNG HỘI SỞ CHASE CLG CHASE SÀI GÒN CÓ AI Ở ĐÓ KHÔNG
CÓ TÔI WHITE.
CẬU ĐANG LÀM GÌ Ở ĐÓ VÀ TẠI SAO CẬU KHÔNG RỜI ĐI TERMIJN BÂY GIỜ CÒN AI ĐANG Ở ĐÓ
TÔI LÀ WHITE STOP SÀI GÒN VẪN KHÁ YÊN TĨNH VÀ AN TOÀN VÀ NGÒI RA1
CÒN NGƯỜI NÀO KHÁC Ở ĐÓ KHÔNG
CÓ NHIỀU NGƯỜI ĐANG Ở ĐÂY STOP
BAO NHIÊU ĐÃ RỜI ĐI
SÁU MƯƠI HAI THƯA NGÀI VÀ NĂM MƯƠI SÁU CHO HÔM NAY STOP TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI KHÁC ĐÃ CHỌN Ở LẠI STOP CÓ VẺ KHÔNG CÓ VẤN ĐỀ GÌ VỀ CHUYỆN NÀY STOP ELLERMAN RẤT LO NGẠI VỀ VIỆC NGƯỜI GỬI SẼ NHẬN LẠI TIỀN NHƯ THẾ NÀO STOP ANH TA KHÔNG MUỐN KHÁCH HÀNG BỊ THIỆT HẠI VÌ GIAO DỊCH VỚI NGÂN HÀNG MỸ STOP HIỆN TẠI CHỨNG TỪ VÀ MÃ GIAO DỊCH ĐANG Ở ĐẠI SỨ QUÁN PHÁP THEO CHỈ THỊ CỦA NGÀI STOP NGÀI CÓ MUỐN TÔI ĐẾN GẶP THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG QUỐC GIA VỚI ELLERMAN VÀ CỐ GẮNG CHUYỂN TÀI KHOẢN SANG CÁC NGÂN HÀNG KHÁC KHÔNG STOP TÔI TIN RẰNG MÌNH VẪN CÒN THỜI GIAN ĐỂ LÀM MÀ KHÔNG GÂY TỔN HẠI CHO MỤC TIÊU KHÁC
DỪNG NGAY CHUYỆN VÔ NGHĨA ĐÓ LẠI VÀ CẬU ĐƯỢC CHỈ THỊ RỜI KHỎI VIỆT NAM CÙNG VỚI NHÓM CÒN LẠI NGAY HÔM NAY STOP TỔNG HỘI SẼ THÔNG BÁO CHO NGÂN HÀNG QUỐC GIA CẦN PHẢI LÀM GÌ STOP TÔI LẶP LẠI HÃY RỜI KHỎI ĐÓ NGAY TERMIJN
VÂNG THƯA NGÀI TÔI HIỂU STOP RÕ HOÀN TOÀN
THÔNG ĐIỆP TỪ ÔNG KLIMM GỬI ÔNG WHITE
VUI LÒNG ĐẢM BẢO MÃ GIAO DỊCH ĐÃ BỊ HỦY VÀ ĐÍCH THÂN MANG THEO TẤT CẢ VI PHIM CÓ SẴN TỐI NAY STOP
TÔI CÓ THỂ GỬI VI PHIM VÀ CHỨNG TỪ CỦA NGÀY CUỐI CÙNG QUA TÚI NGOẠI GIAO KHÔNG
CHỈ KHI ANH KHÔNG THỂ TỰ MANG THEO CHÚNG TÔI CHƯA NHẬN ĐƯỢC BẤT KỲ TÚI NÀO TRƯỚC ĐÓ STOP
ĐỒNG Ý SẼ MANG THEO STOP CÒN GÌ NỮA KHÔNG
CẢM ƠN VÀ VUI LÒNG ĐIỆN THOẠI HOẶC GỬI ĐIỆN TÍN THÔNG BÁO CHO CHÚNG TÔI TẠI ĐIỂM ĐẾN STOP TẠM BIỆT
TẠM BIỆT CAM ON
– Điện văn giữa tác giả với Văn phòng Hội sở Hong Kong của Ngân hàng Chase Manhattan ngày 25/4/1975

Chương 1
CHỦ NHẬT, 6/4 –
THỨ HAI, 14/4/1975
Phải mất nhiều thời gian hơn dự kiến tôi mới nhận ra những thay đổi kể từ khi tôi sống ở Sài Gòn bốn năm trước. Để biện minh cho mình, nơi chốn này quả là một đối tượng nghiên cứu về tình trạng quá tải giác quan. Năm 1971, tôi quản lý Ngân hàng American Express ở Pleiku, miền Nam Việt Nam, công việc đầu tiên của tôi sau khi tốt nghiệp đại học. Giờ đây, vào tháng 4 năm 1975, tôi quay trở lại để nhận một nhiệm vụ tạm thời ở Ngân hàng Chase Manhattan. Còn tạm thời như thế nào, không ai rõ cả.
Sài Gòn nhìn chung vẫn thế: tiếng rít chói tai của những chiếc xe máy hai bánh, những mảnh kính vỡ sắc nhọn trên chóp tường bao quanh các khu dân cư, những âm vị lảnh lót của tiếng Việt. Cái nóng và độ ẩm khiến người ta có cảm giác như những tấm áo khoác nặng nề. Tôi đăng ký lưu trú tại khách sạn Majestic, và trong khi đang tìm hiểu lại khu bờ sông thì chợt nhận ra: vào năm 1971, luôn có một đám mây bụi cao ngang ngực lơ lửng khắp thành phố. Giờ đây, bụi chỉ cao đến mắt cá chân. Tôi tự hỏi có bao nhiêu người đã nhận ra điều đó.
Tình hình quân sự đầu năm 1975 vốn dĩ đã hai năm rõ mười. Sau năm 1973, 70.000 quân từ miền Bắc tiến vào miền Nam Việt Nam. Đây là lực lượng chính quy có kỷ luật cao, được huấn luyện bài bản và được trang bị đầy đủ. Những người này mang quân phục, điều mà du kích quân địa phương thường không làm. Họ là quân chủ lực. Khi vượt qua vùng phi quân sự, DMZ, phân định Bắc – Nam, lực lượng này chẳng vấp phải sự kháng cự nào từ các đồng minh miền Nam Việt Nam của chúng ta, và khi quân đội miền Nam đứng lên chiến đấu, họ đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Cuộc rút lui của họ đã trở thành huyền thoại vì sự hỗn loạn và ô nhục. Vào ngày tôi đến, xe tăng của quân đội miền Bắc Việt Nam nằm phục ở vùng phụ cận và cách Sài Gòn chỉ một ngày dợt xe nhàn nhã. Không một người có lý trí nào lại nghĩ rằng Sài Gòn có thể cầm cự được lâu hơn. Chính suy nghĩ đó của Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã khiến cho sự tỉnh táo của ông ta trở thành đề tài bàn tán hằng ngày. Ngân hàng Chase Manhattan không có chiến lược rút khỏi Việt Nam, trừ khi các anh tính đến tôi.
Chúng tôi có 39 nhân viên người Việt và phải giả định rằng họ sẽ gặp rắc rối nếu chúng tôi để họ ở lại. Chuyện đó đã xảy ra với nhân viên các doanh nghiệp nước ngoài ở Campuchia khi Khmer Đỏ giành quyền kiểm soát. Hơn nữa, giám đốc Chi nhánh Sài Gòn của chúng tôi, Cornelis Termijn, mang hộ chiếu Hà Lan và không chịu tin rằng chính phủ Mỹ sẽ sơ tán anh ta nếu tình hình trở nên căng thẳng. Về mặt chính thức, chúng tôi vẫn nói nếu. Chase cần một người Mỹ để duy trì hoạt động của Chi nhánh Sài Gòn trong khoảng thời gian chừng nào có thể. Ứng cử viên lý tưởng để thay thế Termijn tốt nhất là ở gần đó, còn trẻ, độc thân và, nói một cách huỵch toẹt, là biết chịu thiệt. Có kinh nghiệm làm việc ở Việt Nam, giống như tôi, lại càng nhất cử lưỡng tiện.
Giám đốc điều hành cấp cao của Chase tại Văn phòng Hội sở châu Á – Thái Bình Dương ở Hong Kong là John Linker. Ban đầu, John đã tiếp cận một viên chức khác của Chase, Gael Blake, về việc giải vây cho Cor Termijn ở Sài Gòn, và câu trả lời của người này là một tiếng cười khùng khục đầy lo lắng, có lẽ đã phản ánh rõ khả năng biết chịu thiệt của đề xuất. Cái họ Blake vốn bắt nguồn từ tiếng Anh cổ nghĩa là đen đủi. Lựa chọn thứ hai của Linker là một gã trai tên White.
John Linker có dáng người mảnh khảnh và điển trai, hoạt bát và tự tin, có tố chất lãnh đạo và là một nhân vật đầy triển vọng trong ngân hàng. Tôi chưa từng gặp John trước khi anh ta đến Bangkok để tuyển mộ tôi cho sứ mệnh này; tôi ngờ là anh ta thậm chí còn chưa từng nghe nhắc đến tên tôi. Mà tìm tôi cũng chẳng dễ gì. Nếu nắm bắt thông tin tốt hơn thì anh ta đã không bắt đầu tìm kiếm tôi vào dịp cuối tuần. Như thường lệ, tôi lại ở ngôi làng ven biển Pattaya, chèo thuyền và lặn biển vào ban ngày, rồi đắm mình vào việc học tiếng Thái chuyên sâu đến tận khuya.
Tôi vừa mới được phân nhiệm ở Chi nhánh Bangkok của Chase vài tháng trước với tư cách là nhân viên thẩm định tín dụng doanh nghiệp cấp thấp. Một chương trình đào tạo kéo dài một năm ở New York đã dạy cho tôi cách phân tích báo cáo tài chính và kế toán chỉ vừa đủ để phân biệt một khách vay thương mại vững mạnh với một khách vay rủi ro cao. Mục tiêu của hệ đào tạo là loại bỏ các khoản tín dụng xấu, nhưng ban quản lý địa phương ở Bangkok lại có cái nhìn toàn diện hơn. Họ nói với tôi rằng anh không thể xoay trở ở Bangkok mà không gặp phải một doanh nghiệp đáng ngờ nào đó sẵn lòng trả tiền để có được đặc quyền hợp tác làm ăn với Chase. Họ cũng chỉ ra rằng tiền thưởng được trả cho việc ghi các khoản vay vào sổ sách chứ không phải để giữ chúng lại. Tôi còn đang tìm cách xoay trở với chuyện đó thì Tướng Văn Tiến Dũng của quân đội miền Bắc Việt Nam đã nghe thấy tiếng gọi của định mệnh và dẫn quân vượt qua vùng phi quân sự bị bỏ ngỏ của Việt Nam.
* * *
Đó là một buổi chiều muộn ngày Chủ nhật, 6/4/1975, khi Amat, một trong những tài xế của ngân hàng, gõ lên cánh cửa gỗ tếch chắc chắn ở căn hộ của tôi tại Bangkok. Tôi nói rất rõ với Amat kế hoạch hòa nhập văn hóa của mình, và anh ta biết phải nói chuyện với tôi một cách chậm rãi bằng tiếng mẹ đẻ của mình. “Sếp lớn bảo đưa anh đến nhà ông ấy ngay bây giờ.”
Sếp lớn hẳn là Henk Steenbergen, một trong những công dân Hà Lan, cũng giống như Cor Termijn ở Sài Gòn, người đã được Chase tuyển dụng sau khi chúng tôi kiếm được giấy phép hoạt động ngân hàng ở Đông Nam Á từ Nationale Handelsbank vào năm 1962. Với rất ít ngoại lệ, các nhà quản lý người Hà Lan hầu hết đều là những kẻ vô dụng. Nhìn chung, họ là con trai thứ hai hoặc thứ ba của những người nông dân trồng hoa tulip, được điều đến một số múi giờ ít người biết đến để tìm kiếm vận may sau khi người anh cả thừa hưởng trang trại của gia đình. Những người Hà Lan lớn tuổi này nói chung đã kiếm được một số tiền lớn cho ngân hàng khi nền kinh tế địa phương bùng nổ, nhưng cũng đánh mất đi khoản lợi nhuận đó trong thời kỳ suy thoái. Kế hoạch kinh doanh mới của Chase kêu gọi lợi nhuận ít biến động hơn, mở ra làn sóng các MBA đầu tiên của Ivy League2 đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chúng tôi phải ngừng gọi nơi này là Viễn Đông khi người dân địa phương chỉ ra rằng họ chẳng ở xa thứ gì cả. Chúng tôi, những người nước ngoài, có thể là dân lưu vong, chứ họ thì đang ở nhà.
Hầu hết các giám đốc điều hành người Hà Lan đều xem Chase như an dưỡng đường trong những năm tháng yên ổn trước khi về hưu. Một đội ngũ đông đảo các nhân viên sẽ cung cấp sự trợ giúp. Ngoài tài xế, họ còn có bảo vệ, đầu bếp, nhân viên hồ bơi, người làm vườn, quản gia và bảo mẫu chăm sóc đám cháu chắt đến thăm. Họ còn có cả hỗ trợ viên, thường là các cựu cảnh sát đã nghỉ hưu với mạng lưới rộng khắp và hồ sơ ghi chép tỉ mỉ các khoản ân huệ phải thu. Cần một cuộc hẹn với Bộ trưởng Tài chính ư? Gọi cho hỗ trợ viên. Bị đụng xe sao? Hỗ trợ viên. Bệnh lậu à? Hỗ trợ viên.
Henk Steenbergen hưởng lợi từ nền kinh tế Thái Lan vững mạnh với một vài tay đầu cơ đẳng cấp thế giới lượn quanh. Không một ai, kể cả bản thân Henk, biết ông ta sẽ đứng ở đâu trên bậc thang năng lực nếu không có vận may và nền kinh tế phát đạt.
Amat dừng lại ở lối vào nhà của giám đốc điều hành quốc gia, và một người hầu mở cánh cổng sắt cọt kẹt dẫn vào Thiên đường. Những viên đá lát trên bãi cỏ được cắt gọt cẩn thận theo hình dạng hồ bơi uốn lượn bao quanh bởi những cây cọ dừa. Một lối đi quá gần mặt nước như vậy sẽ không an toàn cho những ai không quen nồng độ của bia Thái, chứ đừng nói đến ganja3 Thái, đang loạng choạng về nhà dưới ánh trăng.
Henk Steenbergen, 51 tuổi, và một người đàn ông khác, hơn tôi không quá bảy tuổi, nhỏm dậy khỏi ghế hồ bơi khi tôi bước ra từ hàng cọ. Giọng Hà Lan là một trong những giọng nói có đặc điểm riêng biệt tùy vào từng người. Nó có thể truyền cảm hoặc lịch duyệt, trơn tuột hay thân thiện. Đó là một chất giọng thực sự linh hoạt. Giọng Steenbergen rõ là đang ngượng nghịu. Sự trái ngược giữa ông ta và John Linker, người đàn ông còn lại, chẳng thể nào sinh động hơn.
John quan sát tôi, chăm chú và soi mói đến độ tôi đoán là chẳng có gì nhiều về bản thân tôi mà anh ta chưa từng nghe nói, đọc vị hoặc cảm nhận được. Anh ta tiếp tục đánh giá trong lúc đôi bên bắt tay nhau và cả khi chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn ngoài trời. Khi nhớ lại, đôi mắt của John chính là thứ tôi lưu tâm nhất, chúng vô hồn, giống như nụ cười của Mèo Cheshire4.
Một người phục vụ trao cho tôi ly nước chanh và tôi kín đáo hỏi bằng ngôn ngữ của cô ta xem nó có muối không, vì rằng phong tục ở đây cho rằng muối có lợi cho sức khỏe trong khi nền văn minh phương Tây chưa khám phá ra điều đó. Cô ta: Có. Tôi: Tôi thích không có hơn. Cô ta: Chờ xíu. Đó là một cuộc trò chuyện vỏn vẹn bảy giây, trong một khuôn khổ từ vựng rất thô sơ.
John nói: “Ấn tượng đấy. Cậu ở đây bao lâu rồi?”
“Hai tháng.”
“Rất ấn tượng. Tiếng Việt của cậu thế nào?”
“Vài trăm từ, có thể là ba trăm.” Nhìn lại thì việc cuộc gặp này sẽ đi về đâu vốn dĩ đã rõ rành rành, nhưng ngay lúc đó nó chỉ là cuộc nói chuyện xã giao dưới vòm dừa cọ xào xạc.
“Thử nói thêm gì đó bằng tiếng Việt đi.”
Ly nước chanh không muối của tôi đã đến và tôi nhấp một ngụm. “Được thôi.” Những cụm từ chắp vá có được từ nhiều năm trước ở Tây Nguyên lại vọng về trong tôi. Một nụ hôn thôi mà. Tôi phải về nhà. Hai lon bia. Tôi ngại. Ngậm đi. Tôi không biết. Đẹp trai. Chả giò chấm nước mắm. 10.000 piastre5. Tên sở khanh. Xin lỗi. Tôi nhấp thêm một ngụm nước chanh nữa, bỗng dưng lại thấy lo lắng, biết đâu John cũng biết đôi chút tiếng Việt đủ để nhận ra tôi là một cậu học sinh chểnh mảng đến mức nào.
Cùng với việc triệu hồi những từ ngữ bị xếp xó đã lâu là sự xuất hiện của những hình ảnh đầy cảm xúc ngày đó. Những đàn bướm khổng lồ bay dập dờn trên cánh đồng. Những chiếc xe Renault cổ rong ruổi trên đường phố. Những tên trộm chạy xe máy. Hương vị ngọt ngào thum thủm của quả sầu riêng. Ván bài bị gián đoạn bởi tiếng ầm ầm của những đợt ném bom B-52 xa xa. Một bà già ngồi dưới đất mải mê chà xát lòng bàn chân mình. Vết nứt dài trên mặt bàn bi-da ở câu lạc bộ sĩ quan Pleiku, tạo nên sân chơi gồ ghề cho cả hai cơ thủ.
“Tôi được biết cậu có giấy phép lái máy bay và chứng chỉ thuyền trưởng du thuyền.”
Rõ là John đã làm một số bài tập về nhà. Tôi có thể lái máy bay. Tôi có thể chỉ huy một con thuyền. Tôi có thể nói ngậm đi bằng thứ ngôn ngữ mà chỉ những người mang dép tông đi làm mới hiểu được. Tôi tự hỏi anh ta còn biết gì nữa không. Anh ta có biết rằng tôi phải mất năm năm mới học xong đại học không, hay cha tôi đã đánh mất phòng mạch của mình chỉ vì ông thích Demerol6 hơn là làm cha? Chẳng phải ngẫu nhiên mà chuyện đó đã đặt tôi ở cách xa cha mình nửa quả địa cầu.
Làn nước trong xanh gợn sóng lăn tăn trên mặt hồ. Những người phục vụ lén lút liếc nhìn về phía chúng tôi trong lúc lăng xăng quanh khu nhà. Và lá cọ không ngừng vặn mình trên đầu, xào xạc.
“Cậu có biết Cor Termijn không?” Mắt John lại chuyển sang chế độ chụp X-quang.
“Chỉ mới nghe nói qua về anh ta thôi. Giám đốc điều hành quốc gia tại Chi nhánh Sài Gòn. Một tay cừ, tôi nghe nói thế”. Trên thực tế, qua nguồn thông tin đáng tin cậy, tôi biết Cor là một người có thói quen cố hữu và năng lực tiềm ẩn. Một trong những người Hà Lan có thực tài.
Steenbergen lên giọng. “Đó là đồng nghiệp cũ của tôi ở Handelsbank”. Một sự xác nhận không cần bảo chứng thật hoàn hảo.
Ngay lúc đó, tôi biết rõ lý do tại sao mình lại được mời đến bữa tiệc nước chanh của Steenbergen. Tôi vẫy người phục vụ lại, đưa cho cô ta chiếc ly rỗng của mình và lắp ráp một câu hoàn chỉnh đầu tiên tôi từng nói bằng tiếng Thái, Vui lòng cho thêm một suất đúp rượu whisky Mekong vào ly nước chanh tiếp theo của tôi. Những gã khốn này đang lăm le gửi tôi đến Việt Nam! Phe cộng sản đang đưa Tướng Dũng từ miền Bắc vào, còn phe tư bản rắp tâm gửi tôi đến miền Nam. Tôi gọi với theo người phục vụ sắp rời đi, Cho gấp ba luôn đi! Ngay cả địch thủ của Tướng Dũng cũng phải thừa nhận ông ta là một thiên tài chiến lược. Những người bạn thân nhất của tôi biết rằng tôi đã chơi chiêu để lấy được bằng phi công. Khi nhân viên của Cục Hàng không Liên bang yêu cầu tôi che một mắt và đọc bảng chữ trên tường, cái bảng có chữ E to đùng ở trên cùng, tôi bảo rằng mình sẽ bắt đầu với dòng chữ nhỏ xíu ở dưới cùng. “P-E-Z-O-LC-F-T-D.” Tôi đã thuộc lòng dòng chữ này trên bảng thị lực tiêu chuẩn sau khi bị mất mắt phải trong một tai nạn quần vợt. Khi ban tuyển quân yêu cầu tôi đọc bảng chữ tương tự, tôi đã nói, “Bảng thị lực nào?” Tôi phải thừa nhận rằng có gì đó hơi hèn hèn khi cùng một lúc vừa có bằng phi công vừa được hoãn quân dịch vì bị chột.
Người phục vụ quay lại với ly Mekong chua của tôi. Tôi đã phát minh ra thứ đồ uống tuyệt cú mèo đấy chứ.
John nói, “Cor sẽ rời Sài Gòn vào cuối tuần này. Vợ anh ta đã đi trước rồi, đồ đạc trong nhà cũng đang được chuyển đi”.
“Nếu vậy thì chi nhánh có lẽ sắp đóng cửa.”
Tôi khó lòng tưởng tượng ra việc Chase lại để một chi nhánh hoạt động mà không có giám đốc quốc gia là người nước ngoài. Đây là một cuộc trò chuyện kỳ lạ giữa nhân viên cấp thấp nhất mà Chase tuyển dụng ở Đông Nam Á với giám đốc điều hành cấp cao nhất. Điều này không khác nào việc một tay trung úy quèn đang chém gió với một vị tướng vậy. Những người phục vụ đi lại khẽ khàng và khung cảnh quyến rũ bên hồ bơi càng làm tăng thêm sự phi lý. Ly rượu whisky Mekong chua rõ là có ích nhưng chưa đủ.
“Chúng ta có đội ngũ nhân viên địa phương rất đắc lực ở đó”, John nói. “Chi nhánh tự vận hành hằng ngày. Vấn đề là các nhân viên còn lại đều là người Việt Nam. Nếu Cor rời đi, họ sẽ không còn động lực để tiếp tục làm việc. Họ sẽ tin rằng chúng ta đã bỏ rơi họ và cố gắng rời đi ngay khi có thể. Điều đó trên thực tế sẽ dẫn đến việc đóng cửa chi nhánh, và thêm vào đó là sự rối loạn đáng xấu hổ. Chính tôi sẽ là người quyết định xem có đóng cửa chi nhánh hay không và khi nào, chứ không phải là đám nhân viên bỏ việc.”
Tôi lăm le muốn chỉ ra cho vị sếp lớn của mình hiểu rằng đó chính xác là chuyện sẽ xảy ra trong thời chiến. Nhưng một lần nữa, John Linker không mời tôi trình bày quan điểm của mình. Anh ta đang chờ đợi câu trả lời Được hay Không. Tôi thì vẫn còn lăn tăn về chuyện đó. Tôi nói: “Tôi vẫn đang lắng nghe.”
John gọi người phục vụ đến, chỉ vào đồ uống của tôi và nói: “Cho tôi một ly giống vậy.”
Thứ đó còn khuya mới giống được. Tôi bảo cô ta, “Đưa cho anh ta loại còn zin ấy.” Khi cô ta cười khúc khích, tôi nhận ra người Thái không dùng từ này theo nghĩa đồ uống không chứa cồn. Thế nhưng cô ta vẫn hiểu. Ly nước chanh của John sẽ không bị pha tạp bởi rượu whisky Mekong.
“Cậu nói gì với cô ta đấy?”
“Nhớ đừng cho muối. Họ thường pha nó với muối”. John cần được đưa trở lại trọng tâm câu chuyện. “Ít nhiều thì anh cũng cần một người Mỹ ngồi vào bàn làm việc của giám đốc điều hành quốc gia, cho đến cùng”. Cho đến cùng là tiếng lóng quân sự thay thế cụm cho đến khi chiến tranh kết thúc. Kể từ năm 1965, nó đã được thay thế cho từ vô hạn định. Tướng Dũng đã lên kế hoạch cải tiến định nghĩa đó.
John nói: “Đấy chính là vấn đề”.
“Anh muốn tôi ở đó để khuyến khích nhân viên tiếp tục làm việc…” Lời nói khựng lại trên cửa miệng tôi… bằng cách mang lại cho họ cảm giác an toàn giả tạo ư. Cả hai chúng tôi đều không cần phải nói ra điều đó. John biết tôi biết, và tôi biết anh ta cũng biết. Ai mà biết được Henk nắm những gì? John đã không nói rõ kế hoạch của mình, vì nó chẳng khác nào việc gửi tôi đi làm con tin. Có tôi ở đó, đội ngũ nhân viên người Việt sẽ không tẩu tán và Chi nhánh Sài Gòn vẫn tiếp tục hoạt động – trong một khoảng thời gian mới được định nghĩa.
Tôi uống cạn ly đồ uống của mình và người phục vụ lập tức tiến lại gần. Cô ta có thân hình cân đối độ chừng 40 tuổi, duyên dáng và trang điểm đậm. Cô ta liếc mắt đưa tình với tôi.
“Thêm nhé?”
“Ừ.”
“Một ly bốc lửa chứ?”
“Hẳn rồi, cảm ơn.”
Cho đến nay, điều thiếu sót trong chiến lược của John chính là cái cách anh ta định thuyết phục con tin của mình bằng một hi vọng không đâu, điều được cho là sẽ lan tỏa đến các nhân viên bản địa. Rồi tôi chợt nhận ra anh ta không yêu cầu tôi làm gì cả. Anh ta chỉ đơn giản là gán sứ mệnh ấy cho tôi. Tại trận Gettysburg7, Tướng Longstreet có lẽ cũng đã nhìn Tướng Pickett giống như cách John Linker vừa nhìn tôi. Đó là cái nhìn mang ý nghĩa, tôi sẽ không có mặt ở đó, Pickett, vì thế mọi chuyện anh sẽ phải tùy cơ ứng biến đấy nhé. Có cố gắng thế nào đi nữa tôi cũng chẳng thể đồng cảm với Tướng Pickett được.
Thế nhưng, tôi vẫn hào hứng với lời đề nghị này. Nói theo một cách nào đó thì điều này cho thấy sự xem trọng của anh ta. Tôi có một tình cảm ban sơ với Sài Gòn. Và sẽ nối gót Somerset Maugham8, Graham Greene9, Joseph Conrad10. Người Việt Nam là một dân tộc thú vị và dễ mến. Còn quán cà phê sân hiên của khách sạn Continental thì phục vụ món bánh sừng bò thơm nức mùi bơ. Tôi gục gặc đáp: “Tôi nhận lời”.
Tôi không rõ chính xác là mình đã nhận lời làm gì, ngoài việc trông nom một đám nhân viên nào đó. John trông nhẹ nhõm hẳn ra. Giờ thì anh ta có thể báo cáo với Tổng hội rằng mình đã kiểm soát được tình hình. Anh ta vừa “thả dù” một gã người Mỹ trẻ tuổi có kinh nghiệm ở Sài Gòn đến thay thế cho tay giám đốc điều hành quốc gia sắp đào tẩu nhằm ngăn cản nhân viên đóng cửa chi nhánh. John sẽ thổi phồng khả năng nói tiếng Việt lưu loát của tôi. Anh ta cũng có thể đề cập đến chuyện tôi vẫn chưa đóng góp gì nhiều cho Chi nhánh Bangkok. Việc thông tin với Tổng hội rằng Henk Steenbergen chẳng cần gì ở tôi sẽ là phần trung thực nhất trong báo cáo của John.
* * *
Tuy nhiên, hẳn sẽ có ai đó nhớ tôi – đó là cô bạn gái Oie. Người Thái ai cũng có biệt danh vì ngay cả đối với người bản xứ, tên họ cũng có quá nhiều âm tiết. Trong tiếng Thái, từ oie có nghĩa là món mía ghim, và cô nàng thực sự là một người rất đáng yêu. Oie là người Thái gốc Hoa và tiếng Anh của cô rất hoàn hảo vì đã từng học đại học ở Hoa Kỳ. Cô có một khuôn mặt đẹp lạ thường và, với chiếc xu chiêng cúp ngực độn dày của mình, ai cũng phải ngoái lại nhìn cô. Cô ấy còn sáng dạ nữa. Oie là một nhà báo. Và là một cô gái đoan trang, hơn hẳn bất cứ cô gái nào trông đợi cặp kè với tôi.
Chính Oie là người đã đặt cho tôi biệt danh tiếng Thái là Seua Cao, hay Bạch Hổ. Biệt danh này không mấy khi được chú ý, mặc dù các đồng nghiệp của tôi ở ngân hàng đôi khi cũng sử dụng nó một cách châm biếm. Oie nghĩ chuyện đến Việt Nam trong lúc nơi đó đang rơi tự do là một việc điên rồ nhưng cũng đầy mạo hiểm. Tôi đã không nói với cô ấy rằng đó chỉ là công việc trông trẻ hay chức danh thực sự của tôi trong công ty sẽ là “con tin”.
* * *
Thời gian tiêu chuẩn để một người Mỹ nhận được thị thực nhập cảnh Việt Nam tại Bangkok là hai tuần. Đã đến lúc gọi cho hỗ trợ viên của Chase. Tên ông ta đã bị quên lãng trong lịch sử, nhưng đó là một ông già bảnh bao, nhăn nheo và ăn nói nhỏ nhẹ, với nghiệp vụ phân tích chữ viết tay. Tiếng Thái có 44 phụ âm 12 nguyên âm, 5 thanh điệu, một vài dấu phụ và những tiêu chuẩn chính tả vùng miền, tất cả tạo nên một câu đố đa chiều cho người phân tích chữ viết. Không có gì ngạc nhiên khi ông ta lại được xem trọng đến vậy. Người của chúng tôi là một hỗ trợ viên lành nghề. Để lấy thị thực Việt Nam cho tôi, ông ta đã hứa hẹn với người Việt là sẽ cấp một thị thực Thái Lan cho bất kỳ ai mà phía họ chỉ định, và thế là tôi đã nhận được thị thực chỉ sau ba ngày. Đó là một thỏa thuận có lợi cho người Việt, vì nhu cầu rời khỏi Việt Nam nhiều hơn là vào.
* * *
Tôi là một du khách gọn nhẹ với chiếc cặp nhỏ chứa đồ vệ sinh cá nhân, một chiếc áo sơ mi và một chiếc quần dài. Tôi sẽ mặc sơ mi và quần dài trên người nên thành ra mỗi thứ sẽ có hai chiếc. Quần ống loe hiện đang là mốt và cái của tôi thì rộng đến mười một inch11. Vớ và quần lót. Chúng chiếm khoảng một nửa diện tích trong chiếc cặp da nhỏ của tôi. Để nhường chỗ cho một món hàng cồng kềnh mà ngân hàng muốn tôi mang theo, và một món vật dụng cá nhân khác mà tôi tự thêm vào.
1 Tác giả gõ sai chính tả và có nhắc đến chi tiết này trong phần sau. [ND]
2 Ivy League là tên gọi một nhóm các trường đại học hàng đầu ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ.
3 Một tên gọi khác của cần sa, chất gây nghiện có nguồn gốc từ cây gai dầu (Cannabis Sativa).
4 Nhân vật hư cấu trong tác phẩm Alice ở xứ sở thần tiên của Lewis Carroll.
5 Đồng Đông Dương (tiếng Pháp). Là đơn vị tiền tệ lưu thông tại Đông Dương thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1885 đến 1954. Tương đương với một đô-la, hoặc một peso.
6 Demerol thuộc nhóm thuốc giảm đau opioid. Demerol được dùng để kiểm soát các cơn đau cấp tính khi các phương pháp giảm đau khác không đủ đáp ứng điều trị.
7 Trận Gettysburg được xem là trận chiến đẫm máu nhất và là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ.
8 William Somerset Maugham (1874-1965): nhà văn, kịch gia nổi tiếng người Anh.
9 Graham Henry Greene (1904-1991): tiểu thuyết gia người Anh. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là The Quiet American (Người Mỹ trầm lặng).
10 Joseph Conrad (1857-1924) là tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Anh gốc Ba Lan. Conrad được xem là một trong những tiểu thuyết gia viết tiếng Anh vĩ đại nhất.
11 1 inch = 2.54 cm.
Trích đăng
Sơ lược về kỹ thuật giả mạo tranh – Trích “Phù thủy tranh giả mạo”

Trích từ: Phù Thủy Tranh Giả Mạo - Cơn Cuồng Vermeer, Đức Quốc Xã Và Vụ Lừa Đảo Nghệ Thuật Lớn Nhất Thế Kỷ XX
Tác giả: Edward Dolnick
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 04.2025
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
Một kẻ giả mạo tranh có thể hy vọng rằng sẽ không có nhà khoa học nào kiểm nghiệm sản phẩm của mình, nhưng hắn không thể coi đó là điều hiển nhiên. Với một kẻ chuyên giả mạo tranh của các danh họa cổ điển, thách thức kỹ thuật đầu tiên là mô phỏng niên đại tác phẩm. Làm cách nào hắn có thể biến một bức tranh mới vẽ cách đây ba tháng trông giống y hệt một tác phẩm ra đời từ ba thế kỷ trước?
Bắt đầu từ những bức vẽ mực, vốn đặt ra nhiều thách thức tương tự như tranh vẽ màu nhưng ít gian nan hơn. Kẻ làm giả có thể luyện tay nghề trên các bản vẽ nét trước khi chuyển sang tranh sơn dầu, giống như tên tội phạm đi cướp các trạm xăng trước khi tấn công các ngân hàng. Đầu tiên, cần phải có giấy. Bạn phải tìm đúng loại giấy vì ai đó có thể nhờ các nhà khoa học kiểm chứng, những người có thể xác định niên đại của bất cứ thứ gì từng mang sự sống (chẳng hạn như một cái cây).
Phần việc này rất dễ. Christopher Wright, một học giả lỗi lạc về tranh Vermeer và là người chưa từng bị buộc tội làm ăn phi pháp, đã đứng ra chứng minh điều này. Trong căn hộ của mình ở London, ông lục tìm trong hàng ngàn cuốn sách mỹ thuật để chọn ra bộ sách chín tập của John Smith mang tên A Catalogue Raisonné of the Works of the Most Eminent Dutch, Flemish, and French Painters. Wright lấy xuống tập một và lật sang trang in ngày xuất bản. “À, năm 1829. Hoàn hảo.” Ông lật tiếp vài trang. Những cuốn sách cổ như vậy luôn có một đến hai trang trắng ở đầu và cuối sách, những trang mà kẻ giả mạo tranh chắc chắn có thể cắt ra sử dụng. Đây là một ví dụ. Wright mở ra chỗ trang giấy trắng và ngẫm nghĩ một lúc. Sau đó, ông bắt chước giọng điệu ngọt xớt của một tay buôn tranh với một khách hàng lắm tiền. “Có lẽ tôi nên giới thiệu với ngài về bức Constable tuyệt vời này chăng? Bức Thánh đường Salisbury (Salisbury Cathedral), ngài biết đó. Tuyệt quá phải không?”
Giống như trò bịp của Wright, hầu hết những kẻ giả mạo tranh đều thực hiện theo lối tư duy ngược – họ bắt đầu với chất liệu rồi sau đó mới chọn họa sĩ nào phù hợp với chất liệu đó. Phương châm của họ là “Hãy để giấy chọn danh họa.” Thường thì loại giấy đó có xuất xứ từ những cuốn sách. Tom Keating, một tay làm tranh giả người Anh cẩu thả nhưng vẫn thành công, phát đạt trong suốt những năm 1960-1970 khi tìm được nguồn cung cấp các loại giấy cổ xưa từ một cửa hàng bán họa cụ lâu đời đã ngừng kinh doanh. Nhưng những phát hiện như vậy rất hiếm. Sách dễ tìm hơn nhiều so với bất kỳ nguồn giấy có từ hàng thế kỷ trước, và giống như cuốn sách của John Smith, chúng có niên đại chính xác.
Vì vậy, những kẻ giả mạo tranh thường lui tới các cửa hàng sách cũ để tìm kiếm những cuốn sách bị quên lãng, tốt nhất là những cuốn có khổ lớn. Elmyr de Hory, một tay giả mạo tranh nổi tiếng gốc Hungary, ưa thích những cuốn sách như Chateaux of the Loire và Battles of the Great War. Hắn tự nhận là đã từng bán một bức “Modigliani” vẽ trên tờ giấy xé từ một cuốn sách mà hắn mua với giá 1 đô-la.
Vậy là đã có thể yên tâm về giấy. Bây giờ tới các lỗ mọt. Những kẻ giả mạo tranh không phải là những con mọt sách duy nhất quan tâm đến những cuốn như Chateaux of the Loire. Lỗ mọt là những đường hầm nhỏ tí khoét sâu vào những cuốn sách cũ hoặc những tờ giấy cổ xưa. Kẻ giả mạo tranh sẽ rất mừng khi thấy lỗ mọt, vì đó là bằng chứng cho thấy sự lâu đời, nhưng những cái lỗ này lại gây ra một vấn đề tương đối khó xử lý.
Trong một bức vẽ nét có niên đại từ nhiều thế kỷ trước, các cạnh của lỗ mọt sẽ không có bất kỳ dấu mực nào, bởi vì mực vẽ đã khô từ lâu trước khi lũ mọt bắt đầu đào hầm. Nhưng nếu một tay giả mạo tranh thời nay nếu không để ý mà cứ bắt tay vào vẽ, thì mực từ cọ vẽ của hắn có thể thấm vào lỗ mọt và tố cáo trò lừa đảo này. Vậy kẻ giả mạo tranh phải làm gì?
Những kẻ giả mạo tranh thường khư khư giấu kín bí quyết của mình – cũng giống như các nhà ảo thuật – nhưng Eric Hebborn quá cố, một kẻ có tính ưa phô trương đã phá bỏ các quy tắc của phường nghề. Cuốn Art Forger’s Handbook của ông ta là một cuốn cẩm nang hướng dẫn cách làm tranh giả. Thomas Hoving nói rằng cuốn sách ấy chứa đầy các thông tin chi tiết “gần như ngang tầm thuyết Tương đối của Einstein.”
Hebborn là một tay lừa bịp chuyên nghiệp, và nhiều chuyện ông ta kể thật khó tin. Liệu có đúng như lời Hebborn tuyên bố khi còn là một thiếu niên, ông ta đã làm việc cho một người đàn ông lập dị nhưng tốt bụng, thường có thói quen ngủ thò chân ra ngoài cửa sổ với một sợi dây lủng lẳng ở ngón chân cái, cột một tờ hướng dẫn cho khách kéo dây gọi mình trong trường hợp khẩn cấp.
Nhưng mọi chuyện về Hebborn đều khác biệt và kỳ lạ (kể cả cái chết của ông ta, trên một con phố ở Rome vào tháng Một năm 1996, một kẻ nào đó đã nện vỡ sọ ông bằng búa). Hebborn khoe đã bán được hơn năm trăm bức tranh giả mạo các danh họa cổ điển và quả quyết rằng một số bức thậm chí còn được treo trong các thánh đường mỹ thuật như Bảo tàng Metropolian ở New York và Bảo tàng Quốc gia ở Washington, D.C. Bất kể độ thực hư của những câu chuyện này ra sao, không thể phủ nhận rằng Hebborn là một tay có nghề. (Hoving cũng từng nhắc đến “tài năng đáng sợ” của ông ta.) Và những tay đồng nghiệp của Hebborn thừa nhận – đôi khi với vẻ khó chịu – rằng những thông tin kỹ thuật trong cuốn cẩm nang của ông ta hoàn toàn đúng sự thật.
Giải pháp của Hebborn cho vấn đề lỗ mọt không đòi hỏi gì hơn ngoài sự ranh ma và nước bọt. Làm cách nào để giữ cho mực vẽ không dính vào lỗ mọt? Bí quyết đầu tiên là phải trét kín lỗ mọt rồi mới bắt đầu vẽ. Tiếp đó nhai một cuộn giấy nhỏ cho đến khi nó hoàn toàn mềm nhão. Tách miếng giấy vá này ra và đặt lên lỗ mọt. Dùng một cái vồ bằng gỗ gõ nhẹ cho miếng giấy trét kín lỗ. Khi miếng vá đã khô hoàn toàn, dùng dao cạo cắt bỏ những phần dư ra. Xong rồi mới bắt đầu vẽ. Khi mực đã khô thì loại bỏ chỗ trét đó đi là xong.
Những vết ố trên mặt giấy cũng tạo ra một vấn đề tương tự. Đây là những đốm nâu đỏ thường thấy trên mặt giấy lâu năm và những kẻ giả mạo tranh có nhiều cách đơn giản để tạo ra những vết ố giả. Tom Keating thì thích dùng bột cà phê. Trước tiên ông ta sẽ vẽ bức tranh. “Khi mực khô,” Keating nhớ lại, “tôi sẽ thấm ướt tờ giấy rồi búng một thìa Nescafé lên không trung. Khi bột cà phê rơi xuống, các vết ố sẽ xuất hiện như có phép màu.”
Với các tác phẩm có niên đại gần hơn thì mọi việc càng thêm đơn giản. Vì loại giấy phù hợp được sản xuất mới chừng vài năm hay vài chục năm thôi, chứ không phải vài thế kỷ trước, nên chỉ cần những cách xử lý thô sơ mà hiệu quả. Giorgio Vasari, tác giả cuốn Lives of the Artists, cho rằng Michelangelo đã tận dụng rất tốt những ngọn bấc ám khói. “Ông ấy cũng sao chép những bản vẽ mực của các bậc thầy hoàn hảo đến mức không thể phân biệt được bản sao với bản gốc, vì ông ấy đã hun và nhuộm màu cho tờ giấy mang vẻ xưa cũ,” Vasari viết. “Ông thường giữ tranh nguyên bản và lấy phiên bản của mình thay thế khi trả lại.”
Nếu việc hơ một tờ giấy trên ngọn lửa quá khó khăn, kẻ giả mạo tranh có thể chọn cách nhúng thật nhanh tờ giấy vào dung dịch nước trà hoặc cà phê. David Stein, kẻ chuyên làm giả tranh của các bậc thầy hiện đại như Picasso và Chagall cho đến khi bị bắt vào năm 1969, đã hết lời ca ngợi những lợi ích của trà như bất kỳ người sành sỏi nào. Có lúc, Stein từng tính toán chi phí của một bức tranh màu nước “Chagall” mà ông ta hoàn thành từ một đến hai giờ đồng hồ và bán với giá 5.000 đô-la: “Trà: hai xu; giấy: 3 đô-la; màu nước: 8 đô-la; khung tranh: 30 đô-la.”
Giờ thì tới mực vẽ. Ở đây, chiến lược của kẻ giả mạo tranh cũng giống như mánh khóe của một tay súng bắn tỉa, trước tiên bắn một phát vào tường rồi vẽ hồng tâm xung quanh lỗ đạn.
Mực lâu năm sẽ phai dần. Để tạo ra một bức vẽ xưa cũ, Hebborn vui vẻ giải thích, ta hãy khởi sự với mực pha loãng.
Tất nhiên, bản thân loại mực đó phải được làm đúng theo thông số kỹ thuật thời xưa để qua mặt mọi cuộc kiểm nghiệm hóa học. Loại mực được các danh họa cổ điển ưa chuộng, Hebborn viết, thường được lấy từ một trong ba nguồn chính: bồ hóng từ củi gỗ liễu; túi mực của loài mực nang; hoặc các khối u trên thân cây sồi. Giống như công thức của một nhà giả kim, công thức chế tạo loại mực vẽ cổ là một trình tự gồm nhiều bước tỉ mỉ. Trộn nguyên liệu thô với một chút nước mưa, thêm một vài mảnh rỉ sét và một, hai giọt giấm, sau đó đun nóng hỗn hợp cho đến khi có được độ quánh đặc thích hợp.
Rất ít kẻ giả mạo tranh mang khuynh hướng khoa học; những mưu mẹo của họ phát xuất từ nhà bếp hơn là từ phòng thí nghiệm. Hebborn vì thế thường so sánh việc giả mạo tranh với chuyện nấu ăn. Một bức tranh “có thể được nướng qua mà không làm cháy khét ở mức nhiệt vừa phải,” ông ta hướng dẫn trong một đoạn về cách giúp mực ăn sâu vào mặt giấy, giống như những bức tranh vẽ mực cổ xưa. “Việc này cũng giống như món tỏi phi, để lâu thêm một tí là hỏng, nên phải để ý thật kỹ.”
Sau khi nắm được một số trở ngại mà kẻ giả mạo tranh phải đương đầu, chúng ta hãy chuyển sang tranh sơn dầu. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết cách những kẻ giả mạo tranh tạo ra những bức tranh “xưa”, nhưng trước mắt cần nhấn mạnh một điểm chung – việc làm tranh giả đã khó thì việc giả mạo những bức tranh cổ lại càng khó hơn vạn lần. Ngay cả những kẻ giả mạo tranh chuyên nghiệp cũng phải lắc đầu e dè trước thách thức này. “Khả năng lật tẩy một kẻ làm giả tranh sơn dầu cao hơn gấp nghìn lần so với việc lật tẩy những kẻ làm giả các chất liệu khác,” David Stein, một tay giả mạo tranh người Pháp, cảnh báo. “Tranh sơn dầu thường là những tác phẩm đinh chốt của họa sĩ và hầu như luôn được lập danh mục trên toàn thế giới. Vì vậy, khi có kẻ tìm cách bán một bức sơn dầu giả mạo mà chủ phòng tranh hoặc nhà buôn tranh không thấy bức tranh đó được liệt kê trong danh mục, họ sẽ biết ngay là có điều gì đó đáng ngờ. Hơn nữa, một bức tranh sơn dầu, như tranh của Chagall, không thể tùy tiện đem bán ở bất kỳ phòng tranh nào. Có bao nhiêu phòng tranh sẵn sàng bỏ 60.000 đô-la để mua một tác phẩm như vậy, mà đó mới chỉ là mức giá thông thường của tranh sơn dầu Chagall?”
So với Hebborn, Stein chỉ là một tay cò con. Nhưng dù tự mãn là thế, Hebborn cũng phải nhắc lại lời cảnh báo của Stein. Hãy cứ bám theo những bức tranh vẽ nét, ông ta đưa ra lời khuyên. Và tránh xa tranh sơn dầu. Sau đó Hebborn cảnh báo thêm một điều nữa. Ngay cả khi kẻ giả mạo tranh đủ tỉnh táo để tránh xa tranh sơn dầu, hắn cũng nên tập trung vào “những họa sĩ dễ vói tới”.
Những tên tuổi lớn như Brueghel, Holbein và Rembrandt thì không nên. Những tên tuổi vĩ đại này sẽ gây ra mối nguy hiểm gấp đôi – họ tài giỏi đến mức kẻ giả mạo tranh không thể nào bắt chước được phong cách, và tác phẩm của họ thì giá trị đến mức bất kỳ bức tranh giả mạo nào cũng sẽ thu hút sự hoài nghi của các chuyên gia thẩm định. Riêng lần này, Hebborn quyết định lột bỏ chiếc mũ của tên hề sang một bên và nói hết sức nghiêm trang: “Những họa sĩ vĩ đại này hoàn toàn không phù hợp với mục đích của kẻ giả mạo tranh.”
Eric Hebborn, một họa sĩ tự phụ ghê gớm, đã tuyên bố như vậy. Thế mà Han van Meegeren vẫn cứ quyết giả mạo tranh của đại danh họa Johannes Vermeer.
Trích đăng
Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc
Tác giả: Alison Weir
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC
Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.
Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.
Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.
Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.
Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.
Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.
Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.
Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.
Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.
Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.
Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.
-
Cafe sáng1 month ago
Tràn ngập ưu đãi vui đón hè cùng Nhà Sách Phương Nam
-
Cafe sáng5 months ago
Nhiều ưu đãi cực hời đang chờ bạn tại BANDAI NAMCO ASIA POP UP 2025 @ VIETNAM
-
Phía sau trang sách5 months ago
Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu
-
Cafe sáng4 months ago
Hệ thống Nhà Sách Phương Nam phân phối sản phẩm Sonny Angel & Smiski
-
Cafe sáng5 months ago
Lần đầu tiên tại Việt Nam: BANDAI NAMCO ASIA POP UP 2025 – Sự kiện đỉnh cao dành cho fan manga-anime
-
Trà chiều4 months ago
Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung
-
Trà chiều3 months ago
Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên
-
Trích đăng4 months ago
Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”