Phía sau trang sách

Michael Pollan: “Con người điên cuồng vì biến đổi gene”

Published

on

Là tác giả của nhiều đầu sách về môi trường, thực phẩm nổi tiếng như Food Rules, Nào tối nay ăn gì… Trong các tác phẩm của mình, Michael Pollan đã mang đến những suy ngẫm mới về mối quan hệ giữa thế giới tự nhiên và con người. Khát khao cây cỏ do Phương Nam Book vừa mới phát hành cũng là cuốn sách đặc biệt, hấp dẫn như thế.

Xin chào tác giả Michael Pollan. Ông có thể chia sẻ chi tiết quá trình khởi viết Khát khao cây cỏ diễn ra như thế nào?

Tất cả bắt đầu từ một con ong nghệ. Ý tôi là, tiền đề của cuốn sách thì rất, rất đơn giản. Chuyện là vào một ngày nọ, khi đang trong vườn, thì tôi nhìn thấy một con ong nghệ bay ngay bên cạnh và nghĩ: “Chà, có điểm gì chung giữa một con ong và người làm vườn nhỉ?”. Từ giây phút ấy, mọi thứ đã đến với tôi như một khải thị.

Giống như con ong, tôi đang góp phần vào việc giúp cho một loài nào đó chiếm được ưu thế, chẳng hạn khoai tây thay vì tỏi tây. Và giống con ong, tôi nghĩ những loài vật này xuất hiện là vì lợi ích của mình, thế nhưng thực tế thì bản thân tôi mới chính là người đang bị “lợi dụng”. Bởi như bạn biết, khi một con ong tiến hành hút mật, nó nghĩ mình đang “trộm” đi một thứ gì đó, nhưng trên thực tế chính bông hoa ấy mới là “chủ mưu”, lợi dụng nạn nhân giúp nó lan truyền phấn hoa hết từ cây này sang cây khác.

Khi đó tôi đặt câu hỏi, vậy từ quan điểm của những bông hoa, thì con ong nghệ có phải là loài động vật cả tin? Nếu câu trả lời chính xác là vậy, thì liệu chúng ta mang hình hài nào từ chính nhãn quan của các loài cây? Cuối cùng thì tôi cũng hiểu mình giống con ong nghệ ấy hơn chúng ta tưởng.

Vì sao mà ông lại để Johnny Appleseed [1] đóng vai trò quan trọng trong cuốn sách này?

Chà, có lẽ là bạn không tin, nhưng khi đặt bút để viết những dòng đầu tiên thì tôi còn không biết là ông có thật. Trong cả đời mình, tôi nghĩ ông ấy là kiểu anh hùng dân gian chỉ có trong những tưởng tượng từ sách vở thôi. Nhưng hóa ra Johnny Appleseed là John Chapman. Tôi cũng phát hiện phiên bản Johnny Appleseed mà mình từng học hồi còn mẫu giáo là sai hoàn toàn, bởi lẽ ông ấy là một nhân vật thú vị hơn nhiều. Tôi biết về những điều này là qua các cuốn sách xoay quanh loài táo. Ngoài ra tôi cũng biết được một sự thật khác, đó là nếu bạn gieo hạt của một quả táo, thì thế hệ sau sẽ không giống gì với thế hệ trước và không ăn được. Ta không thể ăn táo trồng từ hạt táo, mà chúng phải được lai ghép cũng như nhân bản.

Và chúng không phải là trái cây Mỹ?

Không. Như tôi được biết chúng đến từ Kazakhstan và khi đến đây chúng đã thay đổi rất nhiều trong hành trình đó. Vì vậy việc Johnny Appleseed trồng táo từ hạt có nghĩa là chúng được dùng để làm rượu chứ không phải để ăn. Thực ra những gì Johnny Appleseed đang làm và lý do ông ấy từng được chào đón ở mọi căn nhà gỗ ở Ohio và Indiana là ông đã giúp cho những loại rượu làm từ trái cây thêm phổ biến hơn.

Không chỉ có táo mà ông còn nói đến hoa tulip. Vì sao mà ông lại chọn loài thực vật này?

Vâng, câu chuyện về hoa tulip thật là tuyệt vời. Ý tôi là, đây chính là cơn cuồng hoa mà ta từng biết dưới tên gọi “cơn sốt Hà Lan” nhiều thế kỷ trước, thứ mà ngày nay nhiều người ví von với thói cuồng mạng xã hội. Dù vậy thì tôi vẫn có thiện cảm với người Hà Lan hơn là con người hiện đại, vì so với chiếc điện thoại thì những bông hoa dù sao cũng đẹp và tuyệt vời hơn.

Ngoài ra còn cây cần sa?

Chà, bên cạnh những câu chuyện trên, thì cuốn sách Khát khao cây cỏ này cũng nói về niềm “khao khát”. Nói cho dễ hiểu là khi nhìn vào bông hoa nào đó, liệu ta có thể khẳng định điều gì từ những con ong vây xung quanh nó? Tương tự như thế, với cây cần sa, ta cũng hiểu thêm được chút gì đó về cách tâm trí hoạt động, cũng như vì sao con người trong nhiều thế kỷ phải cần đến chúng.

Trong thực tế, mọi nền văn hóa và mọi chủng tộc đều có những loại cây thần kinh của chính mình. Ngoại lệ duy nhất là người Eskimo. Và lý do duy nhất để giải thích cho điều này là vì không loài cây nào có thể sống được ở trên băng tuyết. Và ngay khi họ phát hiện ra rượu, thì nó đã trở thành loại “cây kích thích” của họ.

Ông cũng tiến gần đến việc đưa ra một tuyên bố chính trị về việc hợp pháp hóa cần sa trong cuốn sách này, nhưng cũng cho thấy chưa có cơ chế để kiểm soát nó. Vì sao ông lại nghĩ thế?

Vâng. Tôi rất đồng cảm với việc khi là con người thì chúng ta cũng có những mong muốn riêng về việc thay đổi ý thức. Tuy nhiên, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc lạm dụng. Tôi nghĩ người Hy Lạp đã có thái độ tương đối tỉnh táo về chuyện đó. Họ tôn thờ Dionysus[2], họ dùng rượu rất nhiều nhưng cũng tuân theo kiểm soát và lễ nghi. Có vài trường hợp chúng rất cần thiết, nhưng nhiều khả năng sẽ là tai họa. Vì vậy không có lời khẳng định nào hoàn toàn chính xác cho câu hỏi trên.

Khi ông nói về biện pháp kiểm soát thì một vấn đề khác cũng được hiện lên, đó là các loài sinh vật biến đổi gene. Ông cũng thử nghiệm trồng chính loại này trong khu vườn của mình nhỉ?

Chà, đây là vấn đề có phần mới mẻ trong mối quan hệ giữa con người với thực vật. Ý tôi là, chúng ta đang thực sự tạo ra một cú chuyển mình trong mối quan hệ với thế giới ngoài kia bằng biến đổi gene. Và tôi nghĩ cách duy nhất để hiểu về điều mới này là tự mình thử. Vì vậy, trong khu vườn riêng, tôi đã trồng những củ khoai tây biến đổi gene. Chúng được thay đổi trong từng tế bào để kháng lại các mầm bệnh.

Như bạn biết đấy, công nghệ sinh học thật là mới lạ. Trước đây chúng ta chưa từng lấy gene của loài cá bơn rồi đưa nó vào một quả cà chua hoặc con đom đóm. Thế nhưng giờ đây mọi thứ rất khác… Rõ ràng là trong tự nhiên, dẫu cho có thêm triệu năm tiến hóa, thì cá bơn và cà chua sẽ không bao giờ giao phối và sinh sản với nhau, thế nhưng bây giờ điều đó có thể. Và đó thật sự là cú chuyển mình. Tôi nghĩ bất cứ khi nào ta làm điều gì hoàn toàn mới mẻ về mặt bản chất, thì phải tiến hành hết sức thận trọng. Nhưng trong trường hợp thực phẩm biến đổi gene, thì những gì đang xảy ra lại không cho thấy sự cẩn trọng ấy.

Ông kết luận rằng về cơ bản thực vật có vai trò tái tạo chúng ta cũng như chúng ta tái tạo thế giới thực vật. Ý ông là như thế nào khi viết dòng này?

Nó được gọi là đồng tiến hóa. Bạn biết đấy, tất cả chúng ta đều đã tìm hiểu về Darwin và biết đồng tiến hóa là gì, nhưng tôi nghĩ nó dành cho các loài khác ngoài kia. Thế giới tự nhiên vô cùng kỳ diệu, nó là một mạng lưới sống nhưng rồi ta đến và xé nát nó. Điều tôi nhận ra khi nhìn vào các loài đã được thuần hóa là chúng ta cũng đang ở trong chính mạng lưới đó. Những loài này đã thay đổi chúng ta. Tôi nghĩ việc phát minh ra nông nghiệp đồng nghĩa với hành động tự coi mình là trung tâm, rằng chúng ta là chủ thể hành động trên các đối tượng thụ động… Nhưng trên thực tế, việc phát minh ra nông nghiệp cũng chính là điều mà giới thực vật đã làm với ta. Chúng buộc loài người phải định cư, bắt đầu làm nông nghiệp, dần dần chặt cây phục vụ cuộc sống nhưng cũng đồng thời là giúp cho chúng có môi trường sống tốt hơn…

Tác giả Michael Pollan – Người viết tác phẩm Khát khao cây cỏ

Thật là lý thú khi nhìn nông nghiệp dưới các tác động của cả 2 phe. Do đó điều tôi muốn nói qua cuốn sách Khát khao cây cỏ đó là chúng ta cũng là một phần của giới tự nhiên, chúng ta đang sống trong mạng lưới lớn và cũng sẽ bị tác động bởi thế giới này.


[1] Johnny Appleseed tên thật là John Chapman. Ông sinh ra ở Leominster, Massachusetts năm 1774. Ước mơ của ông là trồng được thật nhiều táo để không ai bị đói. Trong gần 50 năm, ông đã vun trồng hàng nghìn cây táo. Truyền thuyết kể rằng ông đã liên tục trồng chúng ở những nơi trống trải trong rừng, ven đường và ven suối.

[2] Thần rượu nho trong thần thoại Hy Lạp, đại diện cho khoái lạc, tiệc tùng, niềm vui…

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng