Phía sau trang sách

Michael Pollan: “Con người điên cuồng vì biến đổi gene”

Published

on

Là tác giả của nhiều đầu sách về môi trường, thực phẩm nổi tiếng như Food Rules, Nào tối nay ăn gì… Trong các tác phẩm của mình, Michael Pollan đã mang đến những suy ngẫm mới về mối quan hệ giữa thế giới tự nhiên và con người. Khát khao cây cỏ do Phương Nam Book vừa mới phát hành cũng là cuốn sách đặc biệt, hấp dẫn như thế.

Xin chào tác giả Michael Pollan. Ông có thể chia sẻ chi tiết quá trình khởi viết Khát khao cây cỏ diễn ra như thế nào?

Tất cả bắt đầu từ một con ong nghệ. Ý tôi là, tiền đề của cuốn sách thì rất, rất đơn giản. Chuyện là vào một ngày nọ, khi đang trong vườn, thì tôi nhìn thấy một con ong nghệ bay ngay bên cạnh và nghĩ: “Chà, có điểm gì chung giữa một con ong và người làm vườn nhỉ?”. Từ giây phút ấy, mọi thứ đã đến với tôi như một khải thị.

Giống như con ong, tôi đang góp phần vào việc giúp cho một loài nào đó chiếm được ưu thế, chẳng hạn khoai tây thay vì tỏi tây. Và giống con ong, tôi nghĩ những loài vật này xuất hiện là vì lợi ích của mình, thế nhưng thực tế thì bản thân tôi mới chính là người đang bị “lợi dụng”. Bởi như bạn biết, khi một con ong tiến hành hút mật, nó nghĩ mình đang “trộm” đi một thứ gì đó, nhưng trên thực tế chính bông hoa ấy mới là “chủ mưu”, lợi dụng nạn nhân giúp nó lan truyền phấn hoa hết từ cây này sang cây khác.

Khi đó tôi đặt câu hỏi, vậy từ quan điểm của những bông hoa, thì con ong nghệ có phải là loài động vật cả tin? Nếu câu trả lời chính xác là vậy, thì liệu chúng ta mang hình hài nào từ chính nhãn quan của các loài cây? Cuối cùng thì tôi cũng hiểu mình giống con ong nghệ ấy hơn chúng ta tưởng.

Vì sao mà ông lại để Johnny Appleseed [1] đóng vai trò quan trọng trong cuốn sách này?

Chà, có lẽ là bạn không tin, nhưng khi đặt bút để viết những dòng đầu tiên thì tôi còn không biết là ông có thật. Trong cả đời mình, tôi nghĩ ông ấy là kiểu anh hùng dân gian chỉ có trong những tưởng tượng từ sách vở thôi. Nhưng hóa ra Johnny Appleseed là John Chapman. Tôi cũng phát hiện phiên bản Johnny Appleseed mà mình từng học hồi còn mẫu giáo là sai hoàn toàn, bởi lẽ ông ấy là một nhân vật thú vị hơn nhiều. Tôi biết về những điều này là qua các cuốn sách xoay quanh loài táo. Ngoài ra tôi cũng biết được một sự thật khác, đó là nếu bạn gieo hạt của một quả táo, thì thế hệ sau sẽ không giống gì với thế hệ trước và không ăn được. Ta không thể ăn táo trồng từ hạt táo, mà chúng phải được lai ghép cũng như nhân bản.

Và chúng không phải là trái cây Mỹ?

Không. Như tôi được biết chúng đến từ Kazakhstan và khi đến đây chúng đã thay đổi rất nhiều trong hành trình đó. Vì vậy việc Johnny Appleseed trồng táo từ hạt có nghĩa là chúng được dùng để làm rượu chứ không phải để ăn. Thực ra những gì Johnny Appleseed đang làm và lý do ông ấy từng được chào đón ở mọi căn nhà gỗ ở Ohio và Indiana là ông đã giúp cho những loại rượu làm từ trái cây thêm phổ biến hơn.

Không chỉ có táo mà ông còn nói đến hoa tulip. Vì sao mà ông lại chọn loài thực vật này?

Vâng, câu chuyện về hoa tulip thật là tuyệt vời. Ý tôi là, đây chính là cơn cuồng hoa mà ta từng biết dưới tên gọi “cơn sốt Hà Lan” nhiều thế kỷ trước, thứ mà ngày nay nhiều người ví von với thói cuồng mạng xã hội. Dù vậy thì tôi vẫn có thiện cảm với người Hà Lan hơn là con người hiện đại, vì so với chiếc điện thoại thì những bông hoa dù sao cũng đẹp và tuyệt vời hơn.

Ngoài ra còn cây cần sa?

Chà, bên cạnh những câu chuyện trên, thì cuốn sách Khát khao cây cỏ này cũng nói về niềm “khao khát”. Nói cho dễ hiểu là khi nhìn vào bông hoa nào đó, liệu ta có thể khẳng định điều gì từ những con ong vây xung quanh nó? Tương tự như thế, với cây cần sa, ta cũng hiểu thêm được chút gì đó về cách tâm trí hoạt động, cũng như vì sao con người trong nhiều thế kỷ phải cần đến chúng.

Trong thực tế, mọi nền văn hóa và mọi chủng tộc đều có những loại cây thần kinh của chính mình. Ngoại lệ duy nhất là người Eskimo. Và lý do duy nhất để giải thích cho điều này là vì không loài cây nào có thể sống được ở trên băng tuyết. Và ngay khi họ phát hiện ra rượu, thì nó đã trở thành loại “cây kích thích” của họ.

Ông cũng tiến gần đến việc đưa ra một tuyên bố chính trị về việc hợp pháp hóa cần sa trong cuốn sách này, nhưng cũng cho thấy chưa có cơ chế để kiểm soát nó. Vì sao ông lại nghĩ thế?

Vâng. Tôi rất đồng cảm với việc khi là con người thì chúng ta cũng có những mong muốn riêng về việc thay đổi ý thức. Tuy nhiên, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc lạm dụng. Tôi nghĩ người Hy Lạp đã có thái độ tương đối tỉnh táo về chuyện đó. Họ tôn thờ Dionysus[2], họ dùng rượu rất nhiều nhưng cũng tuân theo kiểm soát và lễ nghi. Có vài trường hợp chúng rất cần thiết, nhưng nhiều khả năng sẽ là tai họa. Vì vậy không có lời khẳng định nào hoàn toàn chính xác cho câu hỏi trên.

Khi ông nói về biện pháp kiểm soát thì một vấn đề khác cũng được hiện lên, đó là các loài sinh vật biến đổi gene. Ông cũng thử nghiệm trồng chính loại này trong khu vườn của mình nhỉ?

Chà, đây là vấn đề có phần mới mẻ trong mối quan hệ giữa con người với thực vật. Ý tôi là, chúng ta đang thực sự tạo ra một cú chuyển mình trong mối quan hệ với thế giới ngoài kia bằng biến đổi gene. Và tôi nghĩ cách duy nhất để hiểu về điều mới này là tự mình thử. Vì vậy, trong khu vườn riêng, tôi đã trồng những củ khoai tây biến đổi gene. Chúng được thay đổi trong từng tế bào để kháng lại các mầm bệnh.

Như bạn biết đấy, công nghệ sinh học thật là mới lạ. Trước đây chúng ta chưa từng lấy gene của loài cá bơn rồi đưa nó vào một quả cà chua hoặc con đom đóm. Thế nhưng giờ đây mọi thứ rất khác… Rõ ràng là trong tự nhiên, dẫu cho có thêm triệu năm tiến hóa, thì cá bơn và cà chua sẽ không bao giờ giao phối và sinh sản với nhau, thế nhưng bây giờ điều đó có thể. Và đó thật sự là cú chuyển mình. Tôi nghĩ bất cứ khi nào ta làm điều gì hoàn toàn mới mẻ về mặt bản chất, thì phải tiến hành hết sức thận trọng. Nhưng trong trường hợp thực phẩm biến đổi gene, thì những gì đang xảy ra lại không cho thấy sự cẩn trọng ấy.

Ông kết luận rằng về cơ bản thực vật có vai trò tái tạo chúng ta cũng như chúng ta tái tạo thế giới thực vật. Ý ông là như thế nào khi viết dòng này?

Nó được gọi là đồng tiến hóa. Bạn biết đấy, tất cả chúng ta đều đã tìm hiểu về Darwin và biết đồng tiến hóa là gì, nhưng tôi nghĩ nó dành cho các loài khác ngoài kia. Thế giới tự nhiên vô cùng kỳ diệu, nó là một mạng lưới sống nhưng rồi ta đến và xé nát nó. Điều tôi nhận ra khi nhìn vào các loài đã được thuần hóa là chúng ta cũng đang ở trong chính mạng lưới đó. Những loài này đã thay đổi chúng ta. Tôi nghĩ việc phát minh ra nông nghiệp đồng nghĩa với hành động tự coi mình là trung tâm, rằng chúng ta là chủ thể hành động trên các đối tượng thụ động… Nhưng trên thực tế, việc phát minh ra nông nghiệp cũng chính là điều mà giới thực vật đã làm với ta. Chúng buộc loài người phải định cư, bắt đầu làm nông nghiệp, dần dần chặt cây phục vụ cuộc sống nhưng cũng đồng thời là giúp cho chúng có môi trường sống tốt hơn…

Tác giả Michael Pollan – Người viết tác phẩm Khát khao cây cỏ

Thật là lý thú khi nhìn nông nghiệp dưới các tác động của cả 2 phe. Do đó điều tôi muốn nói qua cuốn sách Khát khao cây cỏ đó là chúng ta cũng là một phần của giới tự nhiên, chúng ta đang sống trong mạng lưới lớn và cũng sẽ bị tác động bởi thế giới này.


[1] Johnny Appleseed tên thật là John Chapman. Ông sinh ra ở Leominster, Massachusetts năm 1774. Ước mơ của ông là trồng được thật nhiều táo để không ai bị đói. Trong gần 50 năm, ông đã vun trồng hàng nghìn cây táo. Truyền thuyết kể rằng ông đã liên tục trồng chúng ở những nơi trống trải trong rừng, ven đường và ven suối.

[2] Thần rượu nho trong thần thoại Hy Lạp, đại diện cho khoái lạc, tiệc tùng, niềm vui…

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng