Trích đăng
Voi trong căn phòng – Trích “Fuzz – Khi tự nhiên phạm luật”

Trích đăng
Sơ lược về kỹ thuật giả mạo tranh – Trích “Phù thủy tranh giả mạo”

Trích từ: Phù Thủy Tranh Giả Mạo - Cơn Cuồng Vermeer, Đức Quốc Xã Và Vụ Lừa Đảo Nghệ Thuật Lớn Nhất Thế Kỷ XX
Tác giả: Edward Dolnick
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 04.2025
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
Một kẻ giả mạo tranh có thể hy vọng rằng sẽ không có nhà khoa học nào kiểm nghiệm sản phẩm của mình, nhưng hắn không thể coi đó là điều hiển nhiên. Với một kẻ chuyên giả mạo tranh của các danh họa cổ điển, thách thức kỹ thuật đầu tiên là mô phỏng niên đại tác phẩm. Làm cách nào hắn có thể biến một bức tranh mới vẽ cách đây ba tháng trông giống y hệt một tác phẩm ra đời từ ba thế kỷ trước?
Bắt đầu từ những bức vẽ mực, vốn đặt ra nhiều thách thức tương tự như tranh vẽ màu nhưng ít gian nan hơn. Kẻ làm giả có thể luyện tay nghề trên các bản vẽ nét trước khi chuyển sang tranh sơn dầu, giống như tên tội phạm đi cướp các trạm xăng trước khi tấn công các ngân hàng. Đầu tiên, cần phải có giấy. Bạn phải tìm đúng loại giấy vì ai đó có thể nhờ các nhà khoa học kiểm chứng, những người có thể xác định niên đại của bất cứ thứ gì từng mang sự sống (chẳng hạn như một cái cây).
Phần việc này rất dễ. Christopher Wright, một học giả lỗi lạc về tranh Vermeer và là người chưa từng bị buộc tội làm ăn phi pháp, đã đứng ra chứng minh điều này. Trong căn hộ của mình ở London, ông lục tìm trong hàng ngàn cuốn sách mỹ thuật để chọn ra bộ sách chín tập của John Smith mang tên A Catalogue Raisonné of the Works of the Most Eminent Dutch, Flemish, and French Painters. Wright lấy xuống tập một và lật sang trang in ngày xuất bản. “À, năm 1829. Hoàn hảo.” Ông lật tiếp vài trang. Những cuốn sách cổ như vậy luôn có một đến hai trang trắng ở đầu và cuối sách, những trang mà kẻ giả mạo tranh chắc chắn có thể cắt ra sử dụng. Đây là một ví dụ. Wright mở ra chỗ trang giấy trắng và ngẫm nghĩ một lúc. Sau đó, ông bắt chước giọng điệu ngọt xớt của một tay buôn tranh với một khách hàng lắm tiền. “Có lẽ tôi nên giới thiệu với ngài về bức Constable tuyệt vời này chăng? Bức Thánh đường Salisbury (Salisbury Cathedral), ngài biết đó. Tuyệt quá phải không?”
Giống như trò bịp của Wright, hầu hết những kẻ giả mạo tranh đều thực hiện theo lối tư duy ngược – họ bắt đầu với chất liệu rồi sau đó mới chọn họa sĩ nào phù hợp với chất liệu đó. Phương châm của họ là “Hãy để giấy chọn danh họa.” Thường thì loại giấy đó có xuất xứ từ những cuốn sách. Tom Keating, một tay làm tranh giả người Anh cẩu thả nhưng vẫn thành công, phát đạt trong suốt những năm 1960-1970 khi tìm được nguồn cung cấp các loại giấy cổ xưa từ một cửa hàng bán họa cụ lâu đời đã ngừng kinh doanh. Nhưng những phát hiện như vậy rất hiếm. Sách dễ tìm hơn nhiều so với bất kỳ nguồn giấy có từ hàng thế kỷ trước, và giống như cuốn sách của John Smith, chúng có niên đại chính xác.
Vì vậy, những kẻ giả mạo tranh thường lui tới các cửa hàng sách cũ để tìm kiếm những cuốn sách bị quên lãng, tốt nhất là những cuốn có khổ lớn. Elmyr de Hory, một tay giả mạo tranh nổi tiếng gốc Hungary, ưa thích những cuốn sách như Chateaux of the Loire và Battles of the Great War. Hắn tự nhận là đã từng bán một bức “Modigliani” vẽ trên tờ giấy xé từ một cuốn sách mà hắn mua với giá 1 đô-la.
Vậy là đã có thể yên tâm về giấy. Bây giờ tới các lỗ mọt. Những kẻ giả mạo tranh không phải là những con mọt sách duy nhất quan tâm đến những cuốn như Chateaux of the Loire. Lỗ mọt là những đường hầm nhỏ tí khoét sâu vào những cuốn sách cũ hoặc những tờ giấy cổ xưa. Kẻ giả mạo tranh sẽ rất mừng khi thấy lỗ mọt, vì đó là bằng chứng cho thấy sự lâu đời, nhưng những cái lỗ này lại gây ra một vấn đề tương đối khó xử lý.
Trong một bức vẽ nét có niên đại từ nhiều thế kỷ trước, các cạnh của lỗ mọt sẽ không có bất kỳ dấu mực nào, bởi vì mực vẽ đã khô từ lâu trước khi lũ mọt bắt đầu đào hầm. Nhưng nếu một tay giả mạo tranh thời nay nếu không để ý mà cứ bắt tay vào vẽ, thì mực từ cọ vẽ của hắn có thể thấm vào lỗ mọt và tố cáo trò lừa đảo này. Vậy kẻ giả mạo tranh phải làm gì?
Những kẻ giả mạo tranh thường khư khư giấu kín bí quyết của mình – cũng giống như các nhà ảo thuật – nhưng Eric Hebborn quá cố, một kẻ có tính ưa phô trương đã phá bỏ các quy tắc của phường nghề. Cuốn Art Forger’s Handbook của ông ta là một cuốn cẩm nang hướng dẫn cách làm tranh giả. Thomas Hoving nói rằng cuốn sách ấy chứa đầy các thông tin chi tiết “gần như ngang tầm thuyết Tương đối của Einstein.”
Hebborn là một tay lừa bịp chuyên nghiệp, và nhiều chuyện ông ta kể thật khó tin. Liệu có đúng như lời Hebborn tuyên bố khi còn là một thiếu niên, ông ta đã làm việc cho một người đàn ông lập dị nhưng tốt bụng, thường có thói quen ngủ thò chân ra ngoài cửa sổ với một sợi dây lủng lẳng ở ngón chân cái, cột một tờ hướng dẫn cho khách kéo dây gọi mình trong trường hợp khẩn cấp.
Nhưng mọi chuyện về Hebborn đều khác biệt và kỳ lạ (kể cả cái chết của ông ta, trên một con phố ở Rome vào tháng Một năm 1996, một kẻ nào đó đã nện vỡ sọ ông bằng búa). Hebborn khoe đã bán được hơn năm trăm bức tranh giả mạo các danh họa cổ điển và quả quyết rằng một số bức thậm chí còn được treo trong các thánh đường mỹ thuật như Bảo tàng Metropolian ở New York và Bảo tàng Quốc gia ở Washington, D.C. Bất kể độ thực hư của những câu chuyện này ra sao, không thể phủ nhận rằng Hebborn là một tay có nghề. (Hoving cũng từng nhắc đến “tài năng đáng sợ” của ông ta.) Và những tay đồng nghiệp của Hebborn thừa nhận – đôi khi với vẻ khó chịu – rằng những thông tin kỹ thuật trong cuốn cẩm nang của ông ta hoàn toàn đúng sự thật.
Giải pháp của Hebborn cho vấn đề lỗ mọt không đòi hỏi gì hơn ngoài sự ranh ma và nước bọt. Làm cách nào để giữ cho mực vẽ không dính vào lỗ mọt? Bí quyết đầu tiên là phải trét kín lỗ mọt rồi mới bắt đầu vẽ. Tiếp đó nhai một cuộn giấy nhỏ cho đến khi nó hoàn toàn mềm nhão. Tách miếng giấy vá này ra và đặt lên lỗ mọt. Dùng một cái vồ bằng gỗ gõ nhẹ cho miếng giấy trét kín lỗ. Khi miếng vá đã khô hoàn toàn, dùng dao cạo cắt bỏ những phần dư ra. Xong rồi mới bắt đầu vẽ. Khi mực đã khô thì loại bỏ chỗ trét đó đi là xong.
Những vết ố trên mặt giấy cũng tạo ra một vấn đề tương tự. Đây là những đốm nâu đỏ thường thấy trên mặt giấy lâu năm và những kẻ giả mạo tranh có nhiều cách đơn giản để tạo ra những vết ố giả. Tom Keating thì thích dùng bột cà phê. Trước tiên ông ta sẽ vẽ bức tranh. “Khi mực khô,” Keating nhớ lại, “tôi sẽ thấm ướt tờ giấy rồi búng một thìa Nescafé lên không trung. Khi bột cà phê rơi xuống, các vết ố sẽ xuất hiện như có phép màu.”
Với các tác phẩm có niên đại gần hơn thì mọi việc càng thêm đơn giản. Vì loại giấy phù hợp được sản xuất mới chừng vài năm hay vài chục năm thôi, chứ không phải vài thế kỷ trước, nên chỉ cần những cách xử lý thô sơ mà hiệu quả. Giorgio Vasari, tác giả cuốn Lives of the Artists, cho rằng Michelangelo đã tận dụng rất tốt những ngọn bấc ám khói. “Ông ấy cũng sao chép những bản vẽ mực của các bậc thầy hoàn hảo đến mức không thể phân biệt được bản sao với bản gốc, vì ông ấy đã hun và nhuộm màu cho tờ giấy mang vẻ xưa cũ,” Vasari viết. “Ông thường giữ tranh nguyên bản và lấy phiên bản của mình thay thế khi trả lại.”
Nếu việc hơ một tờ giấy trên ngọn lửa quá khó khăn, kẻ giả mạo tranh có thể chọn cách nhúng thật nhanh tờ giấy vào dung dịch nước trà hoặc cà phê. David Stein, kẻ chuyên làm giả tranh của các bậc thầy hiện đại như Picasso và Chagall cho đến khi bị bắt vào năm 1969, đã hết lời ca ngợi những lợi ích của trà như bất kỳ người sành sỏi nào. Có lúc, Stein từng tính toán chi phí của một bức tranh màu nước “Chagall” mà ông ta hoàn thành từ một đến hai giờ đồng hồ và bán với giá 5.000 đô-la: “Trà: hai xu; giấy: 3 đô-la; màu nước: 8 đô-la; khung tranh: 30 đô-la.”
Giờ thì tới mực vẽ. Ở đây, chiến lược của kẻ giả mạo tranh cũng giống như mánh khóe của một tay súng bắn tỉa, trước tiên bắn một phát vào tường rồi vẽ hồng tâm xung quanh lỗ đạn.
Mực lâu năm sẽ phai dần. Để tạo ra một bức vẽ xưa cũ, Hebborn vui vẻ giải thích, ta hãy khởi sự với mực pha loãng.
Tất nhiên, bản thân loại mực đó phải được làm đúng theo thông số kỹ thuật thời xưa để qua mặt mọi cuộc kiểm nghiệm hóa học. Loại mực được các danh họa cổ điển ưa chuộng, Hebborn viết, thường được lấy từ một trong ba nguồn chính: bồ hóng từ củi gỗ liễu; túi mực của loài mực nang; hoặc các khối u trên thân cây sồi. Giống như công thức của một nhà giả kim, công thức chế tạo loại mực vẽ cổ là một trình tự gồm nhiều bước tỉ mỉ. Trộn nguyên liệu thô với một chút nước mưa, thêm một vài mảnh rỉ sét và một, hai giọt giấm, sau đó đun nóng hỗn hợp cho đến khi có được độ quánh đặc thích hợp.
Rất ít kẻ giả mạo tranh mang khuynh hướng khoa học; những mưu mẹo của họ phát xuất từ nhà bếp hơn là từ phòng thí nghiệm. Hebborn vì thế thường so sánh việc giả mạo tranh với chuyện nấu ăn. Một bức tranh “có thể được nướng qua mà không làm cháy khét ở mức nhiệt vừa phải,” ông ta hướng dẫn trong một đoạn về cách giúp mực ăn sâu vào mặt giấy, giống như những bức tranh vẽ mực cổ xưa. “Việc này cũng giống như món tỏi phi, để lâu thêm một tí là hỏng, nên phải để ý thật kỹ.”
Sau khi nắm được một số trở ngại mà kẻ giả mạo tranh phải đương đầu, chúng ta hãy chuyển sang tranh sơn dầu. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết cách những kẻ giả mạo tranh tạo ra những bức tranh “xưa”, nhưng trước mắt cần nhấn mạnh một điểm chung – việc làm tranh giả đã khó thì việc giả mạo những bức tranh cổ lại càng khó hơn vạn lần. Ngay cả những kẻ giả mạo tranh chuyên nghiệp cũng phải lắc đầu e dè trước thách thức này. “Khả năng lật tẩy một kẻ làm giả tranh sơn dầu cao hơn gấp nghìn lần so với việc lật tẩy những kẻ làm giả các chất liệu khác,” David Stein, một tay giả mạo tranh người Pháp, cảnh báo. “Tranh sơn dầu thường là những tác phẩm đinh chốt của họa sĩ và hầu như luôn được lập danh mục trên toàn thế giới. Vì vậy, khi có kẻ tìm cách bán một bức sơn dầu giả mạo mà chủ phòng tranh hoặc nhà buôn tranh không thấy bức tranh đó được liệt kê trong danh mục, họ sẽ biết ngay là có điều gì đó đáng ngờ. Hơn nữa, một bức tranh sơn dầu, như tranh của Chagall, không thể tùy tiện đem bán ở bất kỳ phòng tranh nào. Có bao nhiêu phòng tranh sẵn sàng bỏ 60.000 đô-la để mua một tác phẩm như vậy, mà đó mới chỉ là mức giá thông thường của tranh sơn dầu Chagall?”
So với Hebborn, Stein chỉ là một tay cò con. Nhưng dù tự mãn là thế, Hebborn cũng phải nhắc lại lời cảnh báo của Stein. Hãy cứ bám theo những bức tranh vẽ nét, ông ta đưa ra lời khuyên. Và tránh xa tranh sơn dầu. Sau đó Hebborn cảnh báo thêm một điều nữa. Ngay cả khi kẻ giả mạo tranh đủ tỉnh táo để tránh xa tranh sơn dầu, hắn cũng nên tập trung vào “những họa sĩ dễ vói tới”.
Những tên tuổi lớn như Brueghel, Holbein và Rembrandt thì không nên. Những tên tuổi vĩ đại này sẽ gây ra mối nguy hiểm gấp đôi – họ tài giỏi đến mức kẻ giả mạo tranh không thể nào bắt chước được phong cách, và tác phẩm của họ thì giá trị đến mức bất kỳ bức tranh giả mạo nào cũng sẽ thu hút sự hoài nghi của các chuyên gia thẩm định. Riêng lần này, Hebborn quyết định lột bỏ chiếc mũ của tên hề sang một bên và nói hết sức nghiêm trang: “Những họa sĩ vĩ đại này hoàn toàn không phù hợp với mục đích của kẻ giả mạo tranh.”
Eric Hebborn, một họa sĩ tự phụ ghê gớm, đã tuyên bố như vậy. Thế mà Han van Meegeren vẫn cứ quyết giả mạo tranh của đại danh họa Johannes Vermeer.
Trích đăng
Dòng dõi đại quý tộc – Trích “Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York”

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc
Tác giả: Alison Weir
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
DÒNG DÕI ĐẠI QUÝ TỘC
Kể từ năm 1154, nước Anh nằm dưới quyền cai trị của nhà Plantagenet và việc kế vị ngai vàng đã diễn ra khá êm ả từ cha sang trưởng nam hoặc từ anh sang em trai. Các vị vua nhà Plantagenet, những người theo truyền thuyết được cho là hậu duệ của Quỷ vương, hầu hết là những người năng động và là những nhà lãnh đạo lỗi lạc, mạnh mẽ, hiếu chiến, dũng cảm, công bằng và khôn ngoan. Họ có chung những đặc điểm nổi bật là mũi khoằm, tóc hung và tính khí dữ tợn.
Edward III (1327-1377) là vị vua điển hình của nhà Plantagenet – cao lớn, kiêu hãnh, oai nghiêm và khôi ngô với nét mặt như tạc, mái tóc dài và bộ râu dài. Sinh năm 1312, ông mới chỉ mười bốn tuổi khi vua cha, Edward II, bị phế truất và sát hại, và đến năm mười tám tuổi, ông đã đích thân nắm quyền kiểm soát nước Anh.
Năm 1328, Edward kết hôn với Philippa xứ Hainault, người đã sinh cho ông mười ba người con. Những vụ ngoại tình không thường xuyên của nhà vua không mấy ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân hạnh phúc kéo dài bốn mươi năm này. Edward thừa hưởng tính khí nóng nảy khét tiếng của nhà Plantagenet, nhưng hoàng hậu đã cố gắng kiềm chế ông; trong một biến cố nổi tiếng vào năm 1347, bà đã ngăn cơn thịnh nộ của Edward để cứu mạng những tên trộm bị kết án ở Calais mà nhà vua bắt được sau một cuộc bao vây kéo dài.
Edward sống xa hoa trong các dinh thự hoàng gia mà ông đã mở rộng thêm, và triều đình của ông nổi tiếng với tinh thần hiệp sĩ. Edward đặc biệt sùng kính Thánh George, vị thánh bảo trợ của nước Anh, và đã thực hiện nhiều điều để thúc đẩy sự mộ đạo này. Năm 1348, ông lập ra tước vị cao nhất dành cho hiệp sĩ là Order of the Garter, để tôn vinh Thánh George.
Quan trọng hơn cả, Edward mong muốn giành được vinh quang bằng những chiến công lớn. Năm 1338, lo ngại Pháp xâm lược lãnh địa Aquitaine, trung tâm nghề buôn rượu phát đạt của nước Anh, ông tuyên bố nắm quyền nước Pháp, khẳng định mình là người thừa kế đích thực nhờ dòng dõi của người mẹ vốn là em gái vị vua cuối cùng của nhà Capet [vương triều cai trị nước Pháp từ 987 đến 1328]. Tuy nhiên, cổ luật Salic Franks vốn cấm phụ nữ kế vị hoặc truyền ngôi, và người Pháp đã trao vương miện cho em họ của Edward là Philip xứ Valois, người thừa kế nam của nhà Capet.
Việc Edward ghép biểu tượng hoa huệ của Pháp với con báo của Anh trên gia huy của mình đã dẫn đến cuộc xung đột mà sau này được gọi là Chiến tranh Trăm năm vì nó kéo dài liên tục trong hơn một thế kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Edward, người Anh lúc đầu đã giành được một số thắng lợi: Sluys năm 1340, Crécy năm 1346 và Poitiers năm 1356. Đây là những trận chiến quan trọng đầu tiên mà các cung thủ người Anh thể hiện uy thế trước kỵ binh Pháp nặng nề giáp sắt. Tuy nhiên, những thành công ban đầu của người Anh không bền lâu, và vào năm 1360, Edward buộc phải trả lại một số vùng đất đã chiếm được theo các điều khoản của Hiệp ước Brétigny, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh này. Khi Edward qua đời, ngoài lãnh địa Aquitaine, lãnh thổ trên đất Pháp của ông chỉ có năm thành trấn và vùng đất xung quanh Calais mang tên Pale.

Triều đại của Edward III chứng kiến nhiều thay đổi. Nghị viện được chia thành viện Quý tộc và viện Thứ dân, bắt đầu tổ chức những cuộc họp thường xuyên và khẳng định quyền lực của mình thông qua các biện pháp kiểm soát tài chính. Chức năng chính của Nghị viện vào thời kỳ này là biểu quyết việc đánh thuế, và về mặt này, không phải lúc nào Nghị viện cũng thuận theo ý muốn của nhà vua. Năm 1345, các pháp viện được thiết lập cố định tại London chứ không còn lưu động theo nhà vua khắp vương quốc nữa. Năm 1352, lần đầu tiên tội phản nghịch được đưa vào luật. Năm 1361, cơ quan Tư pháp Trị an (Justice of the Peace) được thành lập – trong đó những người có địa vị và uy tín tốt ở địa phương được bổ nhiệm làm thẩm phán (magistrate) – và một năm sau, tiếng Anh thay thế tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức tại các pháp viện. Triều đại Edward cũng chứng kiến sự thịnh vượng của các tầng lớp thương nhân và sự khởi đầu của việc truyền bá giáo dục trong thường dân.
Vua Edward là nhà bảo trợ hàng đầu cho giới họa sĩ, văn sĩ và kiến trúc sư. Nguồn gốc của lối kiến trúc trực giao kiểu Anh (Perpendicular) có thể bắt nguồn từ triều đại này. Đây cũng là thời kỳ xuất hiện những tên tuổi tiên phong của nền văn học Anh như nhà thơ Richard Rolle, Geoffrey Chaucer, John Gower và William Langland. Trường ca Piers Plowman của Langland là bản cáo trạng về sự áp bức mà người nghèo phải gánh chịu sau đại dịch Cái Chết Đen, và về Alice Perrers, người tình tham lam khét tiếng đã thao túng Edward trong những năm tháng cuối đời.
Edward qua đời năm 1377. Khuôn mặt tượng gỗ, được rước trong tang lễ nhà vua hiện vẫn được lưu giữ ở tu viện Westminster, chính là chiếc mặt nạ đắp theo gương mặt Edward lúc băng hà, và qua khóe miệng xệ xuống ta có thể thấy được tác động của cơn đột quỵ khiến nhà vua qua đời.
Edward III có mười ba người con, trong đó có năm người con trai trưởng thành. Ông đã lo liệu cho họ bằng cách liên hôn với những nữ thừa kế người Anh và sau đó phong các con trai làm những công tước đầu tiên của nước Anh. Nhờ đó, ông đã tạo ra dòng dõi những đại quý tộc quyền lực có huyết thống hoàng gia, với những hậu duệ về sau sẽ tham gia vào cuộc chiến tranh đoạt ngai vàng.
Edward thường bị chỉ trích vì đã ban cho các con trai mình quá nhiều quyền lực, nhưng vào thời đó, nhà vua đương nhiên sẽ phải dùng hết khả năng của mình lo liệu và chu cấp đầy đủ để các con ông có thể duy trì những cơ ngơi và đội ngũ tùy tùng xứng đáng với địa vị hoàng gia của họ. Trong cuộc đời Edward, việc ông để các con của mình liên kết hôn với giới quý tộc cấp cao và nhờ vậy bảo đảm cho họ có được khối tài sản thừa kế đáng kể, đồng thời mở rộng thế lực hoàng gia, được coi là một công cuộc rất thành công. Năm 1377, viên Đổng lý đã nói ở phiên họp Nghị viện cuối cùng của Edward về lòng yêu thương và tin cậy trong hoàng tộc rằng “không vị vua Thiên Chúa giáo nào có được những người con trai như đức vua đã có. Nhờ ngài và các con trai của ngài, vương quốc này đã được cách tân, rạng danh và giàu có hơn bao giờ hết”.
Con trai cả, Edward xứ Woodstock, từ thế kỷ 16 đã nổi tiếng với biệt danh Vương tử Đen. Mới mười sáu tuổi, ông hoàng này đã được phong tước hiệp sĩ tại Crécy, và nhờ những chiến tích lừng lẫy trong mười năm tiếp theo, ông nổi tiếng là hiệp sĩ tài giỏi nhất trong các nước Thiên Chúa giáo. Biệt danh của ông có thể xuất phát từ bộ giáp phục màu đen hoặc, có lẽ đúng hơn, là do tính khí hung tợn của ông. Những năm về sau, do đau yếu triền miên, ông đã làm hoen ố danh tiếng của mình khi ra lệnh tiến hành vụ thảm sát tai tiếng những công dân vô tội ở Limoges. Ông qua đời trước vua cha vào năm 1376, để lại một người thừa kế, cậu bé Richard chín tuổi ở Bordeaux, người sẽ kế vị ông nội vào năm 1377 với vương hiệu Richard II. Một trong những điều trớ trêu của lịch sử là người kế vị vua Edward III lắm con nhiều cháu lại không có hậu duệ nào, một tình huống đã gián tiếp dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng nửa thế kỷ sau.
Trích đăng
Lancaster và York: Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng

Trích từ: Chiến Tranh Hoa Hồng Giữa Lancaster Và York - Cuộc Chiến Vương Quyền Anh Quốc
Tác giả: Alison Weir
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Phát hành: tháng 12.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.
./.
GIỚI THIỆU
Trong quá trình hoàn tất tác phẩm trước, cuốn The Princes in the Tower, tôi nhận ra rằng ở phương diện nào đó, tôi chỉ mới kể một nửa câu chuyện. Lúc ấy tôi đang viết về giai đoạn cuối của cuộc chiến mang cái tên hoa mỹ là Chiến tranh Hoa hồng, một cuộc xung đột kéo dài hơn ba mươi năm, từ 1455 đến 1487. Trên thực tế, có đến hai cuộc Chiến tranh Hoa hồng; lần đầu kéo dài từ 1455 đến 1471, giữa hai gia tộc Lancaster và York, và lần sau từ 1483 đến 1487, giữa nhà York và nhà Tudor. Giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng vốn chỉ được đề cập sơ lược trong The Princes in the Tower, cuốn sách mô tả khá chi tiết giai đoạn thứ hai của cuộc chiến này, thế nên tôi cảm thấy phần tiền truyện ấy vốn dĩ rất thú vị để viết tiếp. Vì vậy, cuốn sách này chính là câu chuyện xoay quanh hai gia tộc Lancaster và York thuộc giai đoạn đầu của Chiến tranh Hoa hồng.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, tôi đã xem xét nhiều nguồn tài liệu, cả cổ xưa lẫn hiện đại, và tất cả những nguồn hiện đại hầu như đều chỉ tập trung vào các khía cạnh quân sự và thực tiễn về chủ đề tôi viết. Cuốn sách này đương nhiên sẽ đề cập đến những vấn đề đó, với khá nhiều đoạn đi sâu vào chi tiết, nhưng mục đích chính của tôi là khắc họa vai trò của con người trong lịch sử – những nhân vật có liên quan, những vai chính của một trong những mối hận thù kéo dài nhất và có sức hấp dẫn nhất lịch sử nước Anh.

Trung tâm của cuộc chiến phe phái đẫm máu này là hình ảnh đáng thương của nhà vua tâm thần bất ổn Henry VI, sự cai trị kém cỏi và trí lực thiểu năng của ông đã khiến chính trị rối ren, dân chúng ta thán, các đại quý tộc bất hòa với nhau, dẫn đến chiến loạn liên miên và một trận ác chiến tranh giành ngôi vua. Đối thủ chính của Henry là Richard Plantagenet, Công tước xứ York, người lẽ ra phải là vua, theo luật trưởng nam thừa kế thời đó. Sau cái chết của Công tước York, quyền thừa kế ngai vàng của ông được trao cho con trai, người về sau trở thành vua Edward IV, một bạo chúa háo sắc dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lancaster.
Cuốn sách này cũng là câu chuyện về cuộc tranh đấu ác liệt và ngoan cường của một người phụ nữ vì quyền lợi của con trai mình. Bị kẻ thù buộc tội đã đem một đứa con hoang đặt vào chiếc nôi hoàng gia, vợ vua Henry – hoàng hậu Margaret xứ Anjou – đã đứng lên chiến đấu vì vương triều Lancaster trong suốt nhiều năm, chống lại những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi để bảo vệ ngôi vua của chồng và con trai mình. Bản thân điều này rất đáng chú ý, vì bà là một người phụ nữ trong thế giới hung bạo của đàn ông, nơi hầu hết nữ giới đều bị coi là những món hàng hóa có thể trao tay, và không có tư cách tham chính.
Còn rất nhiều khuôn mặt người trong tấn tuồng phản trắc và xung đột sẽ diễn ra dưới đây. Con trai của Margaret, Edward xứ Lancaster, vốn tính hung bạo từ nhỏ, đã khiến những người cùng thời không khỏi bàng hoàng trước sự nhẫn tâm sớm bộc lộ của y. Richard Neville, Bá tước xứ Warwick – “Warwick Kẻ Buôn Vua” – là nguyên mẫu của dạng quyền thần hùng mạnh quá mức cuối thời Trung cổ, người đã dựng lên và phế truất các vị vua, thế nhưng lòng trung thành của ông ta, suy cho cùng, chỉ dành cho chính bản thân mình. Chiến tranh Hoa hồng không chỉ dẫn đến sự sụp đổ của một vương triều mà còn cả những đại quý tộc như Warwick.
Tôi đã cố gắng mô tả sâu sát các thành viên của hai gia tộc Lancaster và York như những con người thực sự, có thể nhận diện qua cá tính và điểm yếu của từng người, chứ không chỉ qua những cái tên trên cây gia phả rối rắm. Nhà Beaufort, những đứa con hoang của John xứ Gaunt, hống hách hệt như những ông hoàng trước triều đình và, theo một số người, trên chiếc giường của hoàng hậu. Nhà Tudor cũng là dòng dõi hoàng tộc đáng ngờ, và – giống như nhà Beaufort – trung thành hết mực với nhà Lancaster, gia tộc mà sau này họ nhận quyền thừa kế từ đó. Cuốn sách nhắc đến những vị vua – như Richard II loạn thần và ngông cuồng, kẻ soán ngôi Henry IV, triều đại của ông ta bị hủy hoại bởi các cuộc nổi loạn và bản thân ông thì bị bệnh tật hành hạ; hay chiến binh lạnh lùng Henry V, người hùng của dân chúng, người đã phán đoán sai chính sách đối ngoại dẫn đến đại họa cho con trai mình, Henry VI. Và những vị hoàng hậu: Katherine xứ Valois kiêu sa và vô luân, người tìm kiếm tình yêu với một cận vệ xứ Wales sau cái chết của chồng là vua Henry V; hay Elizabeth Wydville, với nhan sắc lạnh lùng che giấu lòng tham và sự tàn bạo. Bên cạnh những nhân vật này, câu chuyện của chúng ta còn tràn ngập những con người sinh động, bí ẩn hoặc bi thảm, từ Jack Cade khét tiếng, kẻ cầm đầu một cuộc dấy loạn, đến John Tiptoft tàn ác, Bá tước xứ Worcester; và từ rất nhiều lãnh chúa hùng mạnh cho đến hai cô con gái yếu đuối và xấu số của Warwick, Isabel và Anne Neville. Tất cả đều liên quan, bằng cách này hay cách khác, đến cuộc xung đột dữ dội này. Đây quả thực là trường đoạn lịch sử của các phe phái, nhưng chính những người tạo nên các phe phái đó đã khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn đến vậy.
Lịch sử Chiến tranh Hoa hồng đã được thuật lại vô số lần bởi nhiều sử gia, nhưng ngày nay, hẳn sẽ không còn hợp thời nếu nhìn theo quan điểm của nhà Tudor mà cho rằng nguồn gốc của Chiến tranh Hoa hồng nằm ở việc phế truất Richard II, sự kiện xảy ra từ hơn năm mươi năm trước khi cuộc chiến này bùng nổ. Tuy nhiên, thực sự thì nguồn gốc của cuộc xung đột có thể truy ngược đến tận thời điểm đó; để hiểu được các nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Hoa hồng và di sản triều đại của các nhân vật chính, ta cần ngược lại xa hơn nữa, đến thời kỳ dòng dõi đại quý tộc mang dòng máu hoàng gia được sáng lập bởi vị vua nhiều con cái nhất của vương triều Plantagenet, Edward III. Do đó, cuốn sách này không chỉ thuật lại câu chuyện về Chiến tranh Hoa hồng mà còn bàn về hai nhà Lancaster và York cho đến năm 1471.
Những nguồn sử liệu về thời kỳ này rất ít ỏi và thường không mấy rõ ràng, tuy nhiên, chừng đó nghiên cứu đã được thực hiện trong hàng trăm năm qua cũng đủ để soi sáng đôi chút cho chúng ta về giai đoạn thường được gọi là thời chạng vạng của thế kỷ 15. Nhiều ngộ nhận đã bị loại bỏ, nhưng dù vậy cuộc xung đột vương triều phức tạp này vẫn khiến nhiều người nhầm lẫn. Mục đích xuyên suốt của tôi là loại bỏ sự nhầm lẫn đó và cố gắng trình bày câu chuyện theo trình tự thời gian, nhằm làm rõ các vấn đề về việc kế vị ngai vàng vào thời đại mà không có quy tắc thừa kế nhất định nào được áp dụng triệt để. Tôi cũng cố gắng khiến cho giai đoạn thế kỷ 15 này trở nên sống động bằng cách đưa vào càng nhiều càng tốt những chi tiết về đời sống đương thời trong chừng mực khuôn khổ số trang cho phép, nhằm khiến cho chủ đề này phù hợp với mọi độc giả, dù có chuyên môn học thuật hay không. Nhưng chủ yếu là tôi cố gắng thuật lại một câu chuyện phi thường và tàn khốc về những cuộc tranh giành quyền lực ngôi cao có can dự đến một số nhân vật lôi cuốn nhất trong lịch sử nước Anh.
Câu chuyện này bắt đầu vào năm 1400 với vụ sát hại một vị vua và kết thúc vào năm 1471 với vụ sát hại một vị vua khác. Vụ giết người được cho là kết quả trực tiếp từ vụ kia. Câu chuyện về những gì đã xảy ra từ năm 1400 đến năm 1471, vốn được thuật lại trong cuốn sách này, sẽ là lời hồi đáp cho câu hỏi: Như thế nào?
Alison Weir
Surrey
tháng Hai 1995
-
Cafe sáng4 months ago
Đón Tết Ất Tỵ rộn ràng cùng chuỗi hoạt động hấp dẫn tại Nhà Sách Phương Nam
-
Cafe sáng5 months ago
Lịch hoạt động Tết 2025 Nhà Sách Phương Nam
-
Cafe sáng3 months ago
Nhiều ưu đãi cực hời đang chờ bạn tại BANDAI NAMCO ASIA POP UP 2025 @ VIETNAM
-
Phía sau trang sách3 months ago
Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu
-
Book trailer5 months ago
F5 bản thân năm 2025 cùng những cuốn sách giúp bạn khai mở tiềm năng
-
Cafe sáng2 months ago
Hệ thống Nhà Sách Phương Nam phân phối sản phẩm Sonny Angel & Smiski
-
Cafe sáng3 months ago
Lần đầu tiên tại Việt Nam: BANDAI NAMCO ASIA POP UP 2025 – Sự kiện đỉnh cao dành cho fan manga-anime
-
Giới thiệu sách5 months ago
Có một thời ở Chợ Lớn: Ký ức vàng son về Chợ Lớn qua lăng kính của Phạm Công Luận