Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST – 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret – Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich – Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng