Trà chiều

Từ bức ảnh lưu lại khuôn mặt cái chết của Marcel Proust

Tôi vẫn sẽ lưu giữ khuôn mặt ông khoảnh khắc rời xa trần thế đó mãi mãi. Chỉ là bây giờ, tôi cần phải sống. Sống thật trọn vẹn.

Published

on

Tôi đã 24 tuổi được 8 ngày.

Lẽ ra tôi phải viết những dòng này cách đây 8 ngày. Rốt cuộc, vì quá nhiều việc xảy đến mà bây giờ tôi mới viết được.

Bắt đầu từ năm tôi 16 tuổi, mỗi năm vào sinh nhật mình, tôi luôn tự viết cho bản thân mình vài dòng. Tùy mỗi năm mà mục đích mỗi khác nhau: có năm viết là nhớ lại những sự kiện bao giờ muốn quên trong tuổi ấy, có năm viết là để tự an ủi bản thân, có năm viết như lời nhắn nhủ gửi đến người thân yêu, cũng có năm viết là để hoạch định các việc muốn làm trong một tuổi mới… Nhưng năm nay, có lẽ tôi sẽ dành những dòng trong sinh nhật của mình để suy nghĩ về cái chết.

Trước sinh nhật tôi 5 ngày, cụ thể là ngày 10.7, hôm ấy là sinh nhật Marcel Proust. Tôi vẫn chưa kịp đọc dòng nào cuốn Đi tìm thời gian đã mất của ông nhưng lần đầu tiên, chỉ nghe mỗi cái tên ấy thôi đã gợi trong lòng tôi biết bao hoài niệm, sự đồng cảm. Một cảm giác mơ hồ nào đó rằng mình đồng chất với người này. Rồi khi biết Proust sinh ngày 10.7 cũng là Cự Giải – tôi vỡ òa ra vì hiểu nguyên nhân nào khiến tôi có cảm giác vô hình được kết nối với ông. Tôi đã hân hoan đến mức chỉ nhớ 10.7 là sinh nhật ông mà quên mất ngày ấy cũng là sinh nhật của Alice Munro. Ồ, trước đây tôi luôn tự ti vì mình là Cự Giải. Bây giờ vẫn thế. Nhưng nếu có một chút gì thuộc về Cự Giải khiến cho tôi cảm thấy tự hào thì chính là việc có rất nhiều nhà thơ, nhà văn thuộc cung Cự Giải. Tôi chỉ mới phát hiện điều đó vào năm ngoái. Tôi có thể kể những cái tên như: Hermann Hesse, Wislawa Szymborska, Pablo Neruda, Hemingway, Marcel Proust, Franz Kafka, Alice Munro, Pearl. S Buck, Henry David Thoreau, George Orwell, Yann Martel, Amelie Nothomb, Jean Cocteau, Antoine de Saint-Exupéry, Erich Maria Remarque, E.B White, Jacques Derrida… Họa sĩ thì có Frida Kahlo, Gustav Klimt, Marc Chagall. Những người truyền cảm hứng thì có Hellen Keller, Kito Aya… Với danh sách cũng khá dài như thế thì chẳng có gì khiến tôi phải tự ti cả. Cự Giải có thể không nhiều nhân tài như những cung khác hấu như tất cả nhân tài Cự Giải đều tập trung vào lĩnh vực văn chương. Lẽ ra, tôi nên vững tâm một chút vào sự lựa chọn của mình khi có hậu thuẫn niềm tin từ việc cùng cung hoàng đạo với họ. Cách đây một năm, tôi đã rất hồ hởi, vui vẻ, phấn khởi khi nhìn danh sách này. Nhưng bây giờ, điều này chẳng còn quan trọng và ý nghĩa gì với tôi nữa. Họ là họ. Tôi là tôi. Tìm kiếm sự an ủi trong những việc linh tinh như thế này chỉ làm hư bản thân thêm thôi. Tôi phải nhớ mục tiêu sơ khởi của mình, ước mơ tối thượng của mình, không bao giờ được quên nó, không bao giờ được nản lòng, phải thật cố gắng và kiên tâm.

Tôi lại tiếp tục đi một đường vòng với lối nói chuyện dông dài của mình. Quay về sinh nhật Marcel Proust. Vâng, hôm sinh nhật Proust tôi đã tìm hình của ông, trong đó tôi tìm được hình ông nằm nhắm mắt ngay khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời. Nếu không có dòng chú thích, tôi đã không nghĩ đó là bức hình chụp một người đã chết. Lúc ấy, tôi cứ nghĩ đó là hình ảnh của ông khi nằm ngủ thôi, một giấc ngủ bình thường, không mộng mị. Trông khuôn mặt ông thật yên bình, thanh thản làm sao… Nhưng rồi nhìn vào đôi mắt có vệt thâm quầng ấy, tôi thấy được sự mệt mỏi. Trong sự thanh thản vẫn có vương một chút gì đó sự mệt mỏi. Cả hai trạng thái đó đều nằm trên khuôn mặt của ông lúc ấy thoáng ẩn thoáng hiện hệt như một biển hiệu quảng cáo hễ xoay chiều thì nhìn ra một bức khác vậy. Có khi tôi nhìn thấy sự mệt mỏi và chỉ mỗi sự mệt mỏi. Có khi tôi nhìn thấy sự thanh thản và chỉ mỗi sự thanh thản. Có khi tôi nhìn thấy cả hai thứ cùng một lúc… Nhưng không chỉ có ba trạng thái này. Nó chỉ là ba điểm mốc cơ bản trong chuỗi trạng thái biến thiên những cảm xúc của tôi khi nhìn bức hình ấy. Và vì thế mà tôi mê mẩn. Tôi lưu hình ông chết vào điện thoại và ngắm mỗi tối trước khi ngủ để mong tìm được giấc ngủ bình yên cũng như ông vậy. Tôi biết ông có một đời sống đau khổ, ông chết khá trẻ. Nhưng dù sao khi ông chết, khuôn mặt ông đã có sự thanh thản, an yên, không vướng chút gì sự đau khổ, dằn vặt của những năm tháng dài tuổi trẻ trước đó cả. Chỉ một chút sự mệt mỏi nhẹ nhàng thoáng qua mà thôi. Nhưng ấy là sự mệt mỏi có thể chữa lành. Tôi muốn sau này mình cũng có thể có một giấc ngủ bình yên như thế. Bây giờ, mỗi khi ngủ, hầu như lúc nào tôi cũng nằm mơ. Việc đó mang lại cho tôi nhiều cảm hứng nhưng đồng thời cũng làm đầu óc tôi mệt mỏi mỗi khi tỉnh dậy.

Tôi cứ nghĩ việc mình ngắm hình Marcel Proust chết trước khi ngủ sẽ kéo dài mãi.

Nhưng rồi cách đây vài ngày, tôi đã xóa hết hình ông chết trong điện thoại.

Không phải vì tôi không còn yêu mến hình ảnh ấy nữa. Tôi vẫn sẽ lưu giữ khuôn mặt ông khoảnh khắc rời xa trần thế đó mãi mãi. Chỉ là bây giờ, tôi cần phải sống. Sống thật trọn vẹn. Không như vài năm trước, tôi chẳng ép mình phải cố gắng sống tích cực nữa. Cũng không như một số năm, tôi hài lòng với việc đắm chìm trong vũng bùn ngập ngụa sự tiêu cực của mình. Bây giờ, chỉ đơn giản là tôi muốn sống thật trọn vẹn một ngày, những điều đã xảy ra trong một ngày tôi muốn thu nhận nó thật trọn vẹn: nếu là buồn thì phải thật buồn trong khoảnh khắc ấy, lặn xuống thật sâu trong lòng để xem hình dáng nỗi buồn của mình như thế nào; nếu là vui, phải thật sự tận hưởng khoảnh khắc ấy hết mình, không một chút đắn đo, hoài nghi, nhớ về quá khứ, so sánh… làm tỉ thứ khác khiến niềm vui bị cản trở. Đơn giản là thế thôi.

Bởi vì, vào ngày 15.7 ấy – cái ngày mà tôi chỉ biết nó là sinh nhật mình, hi vọng nó sẽ trôi qua tốt đẹp… tôi đã không biết được rằng đó là ngày cuối cùng người thầy kính yêu của tôi còn làm việc tại cơ quan. Ngày hôm sau, thầy xin nghỉ phép để vào bệnh viện điều trị. Và ngày hôm sau nữa…thầy đã ra đi. Đến tận bây giờ, tôi vẫn còn chưa thể chấp nhận việc này. Một người tốt và tử tế đến thế như thầy… tại sao cuộc đời lại bất công vậy? Ngày cuối cùng tôi còn được trò chuyện với thầy là vào khoảng cuối tháng 3, lúc đó thầy đã biết mình bị bệnh, lúc đó có lẽ thầy đang rất đau, vậy mà tôi đã không nhận ra, không một chút mảy may nhận ra điều gì… Sao tôi có thể vô tâm như thế chứ? Tôi giận bản thân mình lắm. Ở cuộc gặp cuối cùng ấy, thầy vẫn như mọi khi, hiền hòa, chia sẻ, hỏi những câu gợi ý để tôi nói và rồi lắng nghe tôi, và rồi dịu dàng mỉm cười… vẫn như rất nhiều lần trước đây. Thầy hỏi tôi gần đây nhất đề tài quan tâm mà tôi đã viết là gì. Tôi nói là cung hoàng đạo. Nhưng bây giờ, tôi đã không còn quan tâm về cung hoàng đạo, tôi không muốn mình quá dễ dãi khi viết, dự án sắp tới của tôi sẽ là một đề tài khác. Thầy vẫn mỉm cười lắng nghe. Ấy thế mà tôi vẫn quan tâm cung hoàng đạo nên sẵn dịp vội hỏi thầy:“Thầy ơi, thầy sinh ngày mấy?” “Em hỏi để coi bói cho thầy hả?” “Không phải đâu thầy. Em rất muốn biết cung hoàng đạo của thầy nhưng em cũng muốn biết sinh nhật của thầy để sau này chúc mừng sinh nhật thầy nữa. Năm nào thầy cũng chúc mừng sinh nhật em, vậy mà đến giờ em vẫn chưa biết sinh nhật thầy…” “Em không cần biết đâu. Điều đó không cần thiết. Thầy cũng không tin vào cái gọi là số mệnh. Vậy nên thầy chẳng tin tử vi phương Đông lẫn tử vi phương Tây.”

Khi thầy mất, tôi đọc bản tin cáo phó thông báo và biết được ngày sinh nhật của thầy. Nhưng điều đó quá muộn màng rồi, có còn ý nghĩa gì nữa vào lúc ấy đâu. Khoảnh khắc đó, khi hỏi sinh nhật thầy, tôi thật sự muốn biết con người quá đỗi tuyệt vời ấy chào đời vào ngày mấy, tôi thật sự tin rằng chỉ cần thầy nói một lần là tôi sẽ nhớ mãi và cứ hằng năm đến sinh nhật thầy, tôi sẽ chúc mừng thầy, sẽ cho thầy biết rằng tôi nhớ đến thầy vào ngày thầy sinh ra đời. Tôi thật sự muốn làm điều đó với thầy. Bởi vì thầy đã nhớ sinh nhật tôi, thầy đã luôn động viên, khuyến khích tôi viết, sáng tạo; thầy giúp tôi nhiều đến mức tôi cảm thấy cần phải cố gắng phấn đấu hơn nữa để không phụ lòng thầy; mỗi lúc buồn và nghĩ mình viết thật tệ, tôi lại tìm về đọc những bức thư của thầy, suy nghĩ về những điều thầy gửi gắm để đừng bao giờ bỏ cuộc… thầy đã đem lại cho tôi một nguồn khích lệ lớn đủ để tôi biết mình chẳng thể từ bỏ việc viết. Tôi khao khát một ngày nào đó những thứ tôi viết không chỉ khiến thầy hài lòng mà còn tự hào nữa. Tôi thật sự rất muốn chúc mừng sinh nhật thầy. Tôi đã nghĩ thầy sẽ dễ dàng cho tôi biết ngày sinh nhật như bao người khác; tuy nhiên hôm đó, dù thầy vẫn nói rất nhẹ nhàng nhưng cũng đủ khiến tôi có cảm giác cố gặng hỏi thêm thầy cũng sẽ không nói. Và tôi đã không thể ngờ rằng có ngày tôi cũng biết được sinh nhật thầy nhưng lại trong hoàn cảnh như thế này, hoàn cảnh oái oăm hoàn toàn không có trong đầu tôi. Nhớ lại cuộc nói chuyện ngày hôm ấy, tôi đã buồn và hiểu vì sao thầy nói thế. Thầy không tin vào số mệnh. Khoảnh khắc khi thầy nói điều ấy, tôi cảm giác thầy tràn đầy sức sống, thầy sẵn sàng làm tất cả mọi điều mình muốn, thầy mạnh mẽ làm sao… Nhưng tôi đã không biết được, chính giây phút ấy, mầm bệnh trong cơ thể thầy vẫn đang dần lan rộng làm cơ thể thầy suy yếu từng chút một mỗi ngày… Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được chúc thầy sinh nhật vui vẻ nữa… Tôi vẫn không thể tin mình sẽ chẳng còn thể gặp được thầy dù chỉ một lần nào nữa trong cuộc đời này. Tôi vẫn luôn hình dung thầy còn ở đó, thầy ngồi trong văn phòng xung quanh toàn sách, thầy sẽ rất chậm rãi hỏi tình hình của tôi dạo này thế nào, thầy sẽ cười mỉm thật hiền, thầy sẽ phân tích rồi gợi ý cho tôi biết đâu là những điều tôi nên làm, thầy sẽ chỉ cho tôi biết những thói quen cần phải duy trì để viết tốt hơn, thầy luôn dặn tôi phải cẩn trọng với những gì mình viết, viết xong phải đọc sửa đi sửa lại nhiều lần, phải chờ một khoảng thời gian lâu, khi mình đã dần quên văn bản rồi đọc lại một lần nữa để thấy điểm nào không ổn, thầy sẽ nói rằng cần phải đọc thật nhiều và tập viết mỗi ngày, thầy sẽ hỏi tôi thích đọc sách nào, thầy sẽ lục tìm trong những cuốn sách vây quanh thầy cuốn nào tôi cần rồi đưa cho tôi, thầy sẽ nói nếu sau này cần thêm sách để đọc nữa mà không có tiền mua thì cứ đến tìm thầy, thầy sẽ nói nếu rảnh rỗi thi hôm nào mình sẽ nói chuyện nhiều hơn… Vậy mà bây giờ, tất cả những điều đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Tôi chỉ còn có thể tái lập nó bằng cách nhớ lại. Nhưng tất cả cũng không bằng nụ cười trên khuôn mặt thầy.

Ngày ông ngoại tôi mất vì ung thư, tôi đã không khóc. Đám tang ông tôi cũng không khóc. Tôi đã nghĩ mình không thể khóc khi thấy quá nhiều người khóc. Tại đám tang của thầy, tôi cũng không khóc. Tôi vẫn nghĩ mình sẽ không khóc. Nhưng vừa vào nhà vệ sinh, có khoảng riêng tư cho mình, tôi đã khóc một chút. Rồi thì về đến nhà, tôi vừa ăn trưa vừa khóc. Không thể nào kìm nén nổi những giọt nước mắt để ăn cho tròn chén cơm qua bữa. Ăn xong tôi về phòng và khóc nhiều hơn, không cần phải kìm nén nữa, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho đến khi mệt rồi ngủ.

Thầy không còn nữa, tôi mới biết việc thực sự mãi mãi không được gặp một người mình yêu mến nó kinh khủng thế nào. Vậy mà tôi lại nỡ nào nói câu đó với một người rất đặc biệt trong lòng tôi. Tuổi trẻ của chúng ta có nhiều hoang mang, lầm lỡ, những đổ vỡ và khi chia tay với người ta yêu, vì sự tổn thương, tự trọng, cả suy nghĩ muốn tốt cho tương lai nữa mà ta hay nói: “Chúng mình đừng bao giờ gặp nhau nữa.” Lẽ ra, đó là một câu không nên nói cho dẫu trong tình huống như thế. Bởi việc không bao giờ gặp lại một người nào đó, nó thật sự kinh khủng. Việc có thể sống trên đời này, có cơ duyên gặp nhau trong kiếp người hữu hạn này là một điều rất đỗi quí giá, cần phải trân trọng. Cho dẫu, có lẽ không còn cùng người ấy đi đoạn đường dài phía trước nữa thì cũng không nên nói điều đó. Chia tay có lẽ chỉ cần một nụ cười tạm biệt nhẹ nhàng và chúc nhau sống tốt là đủ.

Thầy ra đi, trong nỗi buồn mất thầy, tôi lại nhớ người ấy. Nhớ da diết. Và rồi lòng tôi nhẹ nhàng vì người ấy vẫn còn sống, vẫn còn tồn tại trên cuộc đời này. Tôi lại nhớ đến câu hát trong bài Your song của Elton John: “How wonderful life is, now you’re in the world.” Phải rồi, chỉ mỗi việc người ấy vẫn đang sống cũng đủ khiến cho cuộc đời này vẫn còn tươi đẹp. Dù không còn được gặp người ấy nữa nhưng chỉ cần nghĩ đến việc ở đâu đó người ấy vẫn đang sống, vẫn đang cố gắng mỗi ngày… điều ấy cũng đã khiến tôi cảm thấy ấm áp. Tôi mong những nguồn năng lượng sống sẽ luôn căng tràn trong người ấy để mỗi ngày với người đều là một ngày mới để sáng tạo, sáng tạo ra những phần cuộc đời khiến người thấy hạnh phúc khi sống trong nó. Và tôi vẫn muốn nói một lần nữa: “Ich liebe dich, meine schöne Wassermann.” Cảm ơn cuộc đời vì đã cho tôi gặp người ấy.

Tôi sẽ mãi nhớ đến thầy. Tôi biết điều đó.

Và trong tuổi 24 này, dù không liệt kê ra danh sách cụ thể những việc cần làm như năm trước nhưng tôi muốn dù mình có làm điều gì đi chăng nữa thì cũng đừng bao giờ đánh mất sự nghiêm túc, đừng bao giờ dễ dãi. Tôi muốn mình sẽ luôn nhớ những điều tâm huyết mà thầy đã dạy cho tôi. Tôi muốn một ngày nào đó mình có thể mỉm cười vì đã không đi chệch lí tưởng, ước mơ mà bản thân mình đặt ra. Tôi muốn ở tuổi này tôi sẽ bình tâm lại không viết gì nữa mà dành thời gian để đọc, đọc thật nhiều hết mức có thể. Và học nữa. Cố sức thu nhặt lấy những kiến thức mà tôi nghĩ là cần thiết, những kiến thức giúp tôi sẽ không phải cô đơn dù ở một mình.

“Chỉ cần thực lòng yêu một người, cuộc đời sẽ được cứu rỗi.”

Tôi cứ lặp đi lặp lại mãi câu nói ấy của Aomame. Và tôi thực sự tin tưởng điều ấy. Chỉ cần trong lòng luôn có hình bóng một người, rồi cố gắng, cố gắng… chắc chắc cuộc đời sẽ ổn.

Cố gắng lên nhé tôi!

Phải đọc thật nhiều hơn nữa.

Happy belated birthday, myself.

Hết.

K

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng