Phía sau trang sách

Tôi đọc lại Rừng Na Uy

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ.

Published

on

Tôi đọc lại Rừng Na Uy ở tuổi 25. Cách đây năm năm, tôi đọc quyển sách lần đầu chỉ vì vài dòng chia sẻ của anh Phan Xine. Khi ấy bộ phim chuyển thể của Trần Anh Hùng vừa ra mắt. Anh viết, đại loại như ước gì có thể đọc quyển sách vào năm mười tám, đôi mươi, để rồi có cơ hội đọc lại ở tuổi 24, 25. Tôi vẫn còn cơ hội ấy nên không muốn lỡ mất.

Khi ấy, ấn tượng để lại không quá đặc biệt. Đa phần là vừa bị kích thích vừa thấy sượng sạo với các đoạn miêu tả tình dục, có lẽ do lớp nền văn học còn hạn chế. Không phải vì chưa từng đọc những thứ tương tự, thậm chí còn loang lỗ và ghê tởm hơn (có lẽ nên dùng từ này) trong quyển Song song của Vũ Đình Giang. Nhưng tình dục trong Rừng Na Uy là thứ gì đó quá sức chịu đựng, hoặc quá bao trùm và lấn át hết những cảm xúc khác.

Tôi nhớ trong lớp đại học có rất nhiều bạn yêu mến quyển sách này. Có một bạn luôn lấy nick trên mạng là Midori, vì yêu mến tính cách và cách sống của cô. Đôi khi các cuộc trò chuyện dẫn về quyển sách, và thường là lời khen ngợi. Bản thân tôi thấy nó chỉn chu, nhưng không hề chạm vào được cảm xúc riêng. Tôi tự hỏi những lời khen đó là thật, hay vì người ta đã mặc định rằng Rừng Na Uy là tuyệt phẩm nên khen hùa vào, và cho đó là thời thượng? Tôi không biết. Năm đó, tôi cũng không xem bộ phim.

Dù vậy, lúc nào trên kệ sách (hoặc khi chưa có kệ là chồng sách) của tôi cũng có một quyển Rừng Na Uy. Không vì lý do đặc biệt nào. Nếu mất, hay cho bạn bè mượn mà quên mất là ai (tôi chỉ mới có thói quen giữ sách hơn một năm nay), tôi sẽ mua lại nếu thấy trong nhà sách.

Chủ Nhật vừa rồi, tôi dành một ngày để đọc Rừng Na Uy từ đầu đến cuối. Ở tuổi 25 này. Tôi có cảm giác như vừa đọc nó lần đầu tiên. Rất dễ đoán rằng, nó hay hơn rất nhiều so với lần đọc trước. Nó chạm vào tôi dễ dàng như thở, và khiến tôi nhận ra nhiều điều. Dưới đây là những cảm nhận.

– Tôi đã hiểu điều anh Phan Xine muốn nói trong những dòng chia sẻ đó. Rừng Na Uy giống như chiếc máy ảnh. Khi ta đọc nó ở tuổi 20, nó lưu giữ hình ảnh ta trong đó, ngây ngô và khờ khạo. Khi đọc lại ở tuổi 25, không phải ta gặp lại các nhân vật hay câu chuyện, mà gặp lại chính mình. Nó hình thành hai đầu mốc để ta có thể nhìn lại và nhận ra đã thay đổi nhiều như thế nào.

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Lớp nền đó không hẳn là kiến thức hay óc phân tích, mà còn là trải nghiệm cuộc sống. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ. Tôi xúc động ngay từ cảnh Naoko và Toru đốt nến mừng sinh nhật trong phòng cô, và nói về việc sống đi sống lại giữa tuổi 18 và 19 trước khi cô vỡ òa. Tôi đã chẳng mảy may để ý ở lần đọc trước. Tiếng lòng của các nhân vật đã chạm được vào tôi, hoặc tôi chạm được vào họ, tôi hiểu họ, từ đó đồng cảm và phần nào đó, hiểu hơn chính mình.

– Tôi bắt đầu nghe The Beatles khoảng năm 21 hay 22 tuổi, hoàn toàn tự nhiên. Trước đó, khi còn bé, tôi đã từng nghe họ và có phần thất vọng về giai điệu và lời hát. Bẵng đi một thời gian, tôi xem bộ phim nhạc kịch Across The Universe, bạn có thể thấy ngay từ tên gọi, sử dụng tất cả các bản nhạc của họ. Tôi ngạc nhiên vì thấy khác hẳn những gì mình từng nghe trước đó. Tôi tìm lại và lần này, hoàn toàn đắm chìm vào thế giới đó. Tôi tìm nghe nhiều hơn, và lạ lùng là, những giai điệu từng nhàm chán bỗng trở nên đầy màu sắc, có không khí riêng.

Lần này, tôi có thể hiểu được tất cả, và thấy thật thú vị với những liên hệ và lối so sánh mà Rừng Na Uy dành cho các bài hát The Beatles. Đều là những bài tôi yêu thích. Như Michelle là cảm giác “đang ở trên đồng cỏ dưới làn mưa nhè nhẹ”, hay bản Rừng Na Uy chủ đề để miêu tả sự cô độc lạnh lẽo mà Naoko phải chịu đựng. Cả nơi cô chọn cũng là một cánh rừng âm u, tôi biết, vì gần nhất với không gian mà Rừng Na Uy tạo ra. Nhiều lần tôi muốn hét lên “Đúng là thế đấy!”. Ngoài ra, Haruki còn gợi đến rất nhiều bộ phim cũ, mà tôi đều đã xem, như The Graduate. Nhờ đó, tôi cảm thấy được sự gần gũi, và đọc quyển sách với sự thú vị cực kỳ.

– Gần đây nhất, những người bạn của tôi có nhắc về quyển sách và một người miêu tả là quyển sách rất “dễ thương”. Một bạn khác phản đối, nói rằng có thể dùng nhiều tính từ để nói về Rừng Na Uy, nhưng chưa bao giờ nghĩa là “dễ thương.” Trịnh Lữ dùng từ chính xác hơn, là “dí dỏm”. Nghĩa là sự hài hước khéo léo và tinh tế, và không làm hỏng mất không khí chung. Tôi để ý, và nhận ra ngay khi nào sự “dí dỏm” đó xuất hiện, không chỉ ở riêng Midori. Naoko cũng khá dí dỏm khi lầm bầm “Chơi gái suốt mà,” và cả những từ ngữ lựa chọn cho các phép miêu tả. Dễ thấy rằng ta phải bật cười nhiều lần, hơi kỳ quặc so với nội dung quyển sách, khi đọc nó.

Lần trước, tôi đọc mà bỏ qua rất nhiều đoạn miêu tả cảnh, vì thấy khá mệt mỏi. Lần này tôi đọc từng từ từng chữ một. Năm năm qua, tôi đã đọc rất nhiều sách của Haruki, kể cả những quyển có dung lượng khá đồ sộ như Kafka hay Biên niên ký, tôi đã quen với lối miêu tả của ông. Quyển xuất sắc nhất, và có ảnh hưởng một phần đến văn phong của tôi là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và nơi tận cùng thế giới. Tuy nhiên, Rừng Na Uy nằm ở nơi nào đó khác, tách biệt hẳn với các quyển sách khác. Lúc nào cũng như có một màn sương bàng bạc lẫn giữa các câu chữ, và các lối so sánh. Tôi rất thích cách dùng từ, như đoạn văn cuối “cái im lặng của tất cả các làn mưa bụi trên khắp thế gian đang rơi xuống tất cả các sân cỏ mới xén trên khắp thế gian.” Không quyển sách nào của ông có lại lối dùng từ như thế, ngay cả quyển có nội dung ký ức rất gần là Tazaki Tsukuru. Nó lóng lánh theo một cách riêng.

– Tình dục trở thành thứ yếu trong lần đọc này. Khi đọc gần hết, tôi mới nhận ra mình chẳng thèm để ý gì đến những cảnh miêu tả tình dục nữa, nó trở nên thật bình thường, hoặc bình dị. Tôi không rõ là do mình đã đọc nhiều quyển sách với nội dung tương tự, hay lối miêu tả của Haruki đã trở nên dễ chịu hơn. Hoặc có thể vì nó hòa quyện hẳn vào nội dung, vào các nhân vật và tính cách của họ để trở nên dễ chịu. Không còn là cảm giác gây sốc như trước đây, thậm chí tôi quên hẳn để chú ý vào những cảnh khác. Tôi yêu mến khi Midori và Toru ở trên sân thượng cửa hàng tạp hóa và hôn nhau dưới cơn mưa, rồi sau đó cuộn tròn trong chăn hỏi về lũ kiến, hơn là các đụng chạm sau đó. Tôi để ý đến góc nhìn từ phía sau lên Naoko, lên bờ vai cô và một phần tai lộ ra, hơn là những miêu tả tay hay môi. Thật lạ lùng.

– Thứ đọng lại trong tôi nhiều nhất, quả thật, là tiếng lòng tự nhiên giản dị, như Trịnh Lữ đã miêu tả. Rừng Na Uy không đồ sộ như dung lượng hay ấn tượng ban đầu, nó ngắn gọn, ít sự kiện, và đi về chiều sâu hơn là độ dài. Tôi có thể thấy đôi chỗ lộp chộp, hoặc khập khiễng, nhưng nó vẫn nằm trong một tổng thể xúc động và mênh mang. Làm sao ông có thể bắt được tuổi trẻ ở độ tuổi 35, 36 khi viết quyển sách này? Nhưng nghĩ lại, những nhà biên kịch viết nên câu chuyện trong Buzzer Beat còn lớn tuổi hơn, đã ngoài 50. Tuổi trẻ ở trong lòng họ, không ở độ tuổi, và việc thể hiện được nó nằm ở tài năng và kỹ năng, nhiều hơn ở việc đang ở trong nó. Haruki từng muốn viết ở độ tuổi 22, 23, nhưng ông bỏ ngang vì chẳng có gì để viết, không trải nghiệm và không kỹ năng. Tôi có thể hiểu nỗi bức bối của việc có một câu chuyện nhưng không làm cách nào để thể hiện nó theo đúng như mình mong muốn, như thể chạy đua mà trên mình mang một lớp giáp nặng, hoặc muốn viết bằng ngôn ngữ khác. Đúng như lời bạn Nh từng nói, viết không phải chuyện ngày một ngày hai, và chính Haruki đã bảo nên sống thật chân thành trước đã.

Tôi có thể cảm thấy từ trong tâm can mình gần như cảm xúc và tình cảm của các nhân vật, với mối liên hệ gần gũi, dù cho chưa từng sống ở những năm 60 hay trải qua những hoàn cảnh tương tự. Từng cái riêng của Naoko, Toru và Midori cũng chỉ là cái chung của biết bao nhiêu thế hệ trẻ, chung gốc rễ là nỗi cô đơn và hoang mang của tuổi trưởng thành và việc thích nghi với nó, với việc lớn lên. Khi nhìn lại ở tuổi 25 này, tôi thấy rằng cái chốt để gỡ bỏ, hay chiếc chìa khóa, hay bất kỳ tên gọi nào về thứ động lực để khiến con người trưởng thành, là nỗi đau. Tình yêu lớn và nỗi đau lớn, gắn bó với nhau như thể thống nhất, như sống và chết, chỉ khi họ học được cách để bước tiếp cùng với nó, chấp nhận nó cũng như chấp nhận bản thân cùng sự bất toàn, cũng như sự bất toàn của mọi thứ trên đời, họ mới có thể sống tiếp thật trọn vẹn. Muôn đời chẳng phải là thế sao? Và trong số những người bước đi, sẽ luôn có những người ở lại, như Naoko. Cái thắt lòng của Rừng Na Uy, cũng như vẻ đẹp của nó, là việc chấp nhận nhưng không bao giờ hiểu nguyên do nào, không thể hiểu được vì sao, cũng như không thể thay đổi, chúng ta không thể làm được gì khác ngoài việc tiếp tục sống, và yêu, và tiếp tục đối diện với nỗi mất mát sẽ diễn ra suốt cuộc đời còn lại. Điều đẹp đẽ nằm ở tấm lòng muốn sống, và muốn yêu, một cách chân thành.

Cuối cùng, tôi xem lại một vài cảnh phim Rừng Na Uy, tôi đã thử xem cách đây vài năm mà không thể xem hết, hoặc không muốn xem hết. Đó là cảnh Naoko và Toru trong ngày sinh nhật lần thứ 20. Mọi thứ đều có vẻ phù hợp và đúng không khí, căn phòng, cách trang trí, màu phim, cơn mưa, nhưng chẳng thể nào mang đến được cảm giác đó, chính là thất bại của phim. Có lẽ là ở nhân vật, vẫn chỉ là những con người cố gắng vào vai những Naoko và Toru, hoặc sẽ chẳng có nhân vật nào thay thế nổi hình ảnh của họ từ tâm trí người đã đọc qua quyển sách. Hoặc có thể ở cách tiếp cận và góc quay, tôi cảm nhận không khí đó còn nhiều hơn ở cảnh trong lớp chăn phim Mr. Nobody, hay Let The Right One In, hay Groundhog Day, là cảm giác về sự đụng chạm giữa các tâm hồn, nhẹ nhàng, ấm áp và cũng đớn đau. Việc thể hiện nó bằng ngôn ngữ hình ảnh gần như là việc không thể. Vì thế nên, nói rằng điện ảnh là thể loại mới nhất và vượt trội nhất cũng đúng, nhưng hơn hẳn hoàn toàn các thể loại nghệ thuật khác là khập khiễng rồi. Điện ảnh cũng có những giới hạn không thể vượt qua, hay chưa thể vượt qua. Đó là điều khiến cho mỗi loại nghệ thuật đều có vị trí và sức hút riêng, cho đến tận bây giờ.

Chỉ có một điều tôi chưa hiểu ở lần đọc này, là việc Toru cảm thấy rung động trước Hatsumi, cái khuấy động mà cậu gọi là “đánh thức bản ngã”, tôi vẫn chưa hiểu được cảm xúc ấy là thế nào. Có lẽ là một sự để dành, cho năm năm sau nữa. Nếu tôi còn sống.

Hết.

Phương Nam


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng