Phía sau trang sách

Nửa mặt trời vàng: Nửa mặt trời vàng còn lại vẫn đang ở đâu?

Adichie, Doris Lessing và căn phòng của riêng ta.

Published

on

Nửa mặt trời vàng lấy bối cảnh cuộc nội chiến Biafra vào cuối thập niên 60 ở Nigeria làm bối cảnh chính, khi những nhũng nhiễu chính trị đang lên cao trào. Dưới sự cai quản của thực dân Anh, Nigeria oằn mình hứng chịu sự chia cắt chia-để-trị như cuộc giày xéo đất nước. Người Igbo ở miền Nam có đầu óc mở, họ giỏi giang, tư duy mở cửa và hơn hết, có lí tưởng chủ nghĩa xã hội khá mạnh. Điều này dội ngược một phản lực lớn lên Đế quốc nơi mặt trời không bao giờ lặn, khi cả Churchill hay Người đàn bà Thép sau này luôn cố gắng lèo lái đất nước mình tránh xa khối Liên Xô chủ nghĩa xã hội. Từ đây, thực dân Anh đứng sau như một cú đẩy, gieo vào đầu người Hausa ở miền Bắc và Yoruba ở miền Tây đầy những nghi kị về sự lớn mạnh và hiếu chiến của người Igbo như mối đe dọa, dẫn đến cuộc tàn sát không thể ngờ tới ở đất nước này. Với Nửa mặt trời vàng, Chimamanda Ngozi Adichie đã thành công khi khắc họa một cách gần như trọn vẹn những biến chuyển lịch sử, nhưng cũng đồng thời qua đó, ta thấy đằng sau là số phận của nhiều loại người: từ thế mạt hạng đến trung lưu, từ chỉ lo cái ăn đến lí tưởng cao vời chủ nghĩa xã hội,… Tất cả xuất hiện trong Nửa mặt trời vàng như những bậc thang đi đến đích đến nhân loại, nhưng liệu bạn có bao giờ tự hỏi, nửa mặt trời vàng còn lại vẫn đang ở đâu?

Phơi bày lý tưởng

Trong Nửa mặt trời vàng, Adichie có lối xây dựng nhân vật vô cùng đặc sắc khi cô phá bỏ hầu hết chuẩn mực trong tiểu thuyết văn chương mang yếu tố Phi châu mà người da đen thấp cổ bé họng luôn bị áp bức còn người da trắng cao xa mãi luôn trôi dạt. Điển hình là Richard – nhân vật được cô gán cho nguồn gốc London nhưng vì yêu cái đẹp của gốm bản xứ vùng Biafra ôm mộng ở lại. Adichie khắc họa Richard như người da trắng nhợt nhạt, mang trong mình cơn ủ ê trầm kha và quá mong manh để trở thành một ông chủ ngoại quốc: “Chàng cảm thấy mình yếu đuối quá, cái yếu đuối vì bệnh tật và vì tiếc nuối mất mát”. Không phải vô cớ khi Adichie xây dựng một nhân vật như thế, mà ở phía đối trọng bên kia, cô xây dựng Keanne – người Richard ôm mộng yêu đương – cứng rắn và trầm lắng đến không tưởng. Bỏ qua chủ nghĩa nữ quyền hay lòng tự tôn dân tộc ở đây, rõ ràng việc chọn nhân vật của Adichie là có chủ ý và hướng tác phẩm sang một lề thói khác, ở đó người phương Tây mang thứ ảo danh văn minh nhưng đầy bất lực thời cuộc và thoi thóp trong cái nhỏ nhặt nhất có được là người; trong khi những người bản xứ vẫn luôn bí ẩn như chính nơi họ xuất xứ, dẫu cho còn đó là những nhiễu nhương, những xung đột luôn âm ỉ cháy: “Tôi là người Nigeria vì một gã da trắng sáng tạo ra cái tên ấy rồi cho tôi cái tông tích ấy. Tôi đen bởi vì một anh da trắng xây dựng khái niệm màu đen để làm sao nổi bật sự khác biệt với cái màu trắng của hắn”.

Adichie không chỉ là một tiếng nói đơn lẻ, mà cô tổng hòa đầy đủ ý chí cả một thời đoạn vào trong tiểu thuyết mình. Cô không che giấu bất cứ điều nào mà tự do vạch trần những nhiễu nhương của xã hội lúc ấy, không chỉ phiến diện trong thế đối đầu với người phương Tây, mà ngay cả trong chính nội bộ những người bản xứ với nhau. Như thể khi xây dựng hình tượng Ugwu hay Harrison, cô không che giấu bản tính kịch cỡm của họ, không cố khoác lên họ màu da đen bóng để rồi đánh đồng tâm trí của họ cũng như người khác. Ugwu mang trong mình đầy những ý nghĩ trưởng giả trong khi Harrison luôn trong tâm thế sính ngoại, nấu những món Tây đến độ quên mất hương vị bản xứ; và cũng là tâm lý của vợ chồng Ezecka – những người Phi châu hưởng lợi từ bộ máy ăn bám chính quyền Nigeria. Họ biến chất đến độ Anulika – em gái Ugwu một lần phải thốt lên rằng: “Anh quên nguồn gốc xuất thân của anh rồi, bây giờ anh trở nên ngu đến nỗi anh tưởng mình là một Ông Lớn đấy”. Cách đối xử giữa những người bản xứ với nhau được phơi ra như tiếng nói mạnh mẽ về chủng tộc mình, không hề che đậy dẫu cho đó hoàn toàn là những điều muốn quên. Adichie thật sự là một cây bút mạnh mẽ, một điều mà không phải ai cũng dễ dàng mang ra trước ánh sáng của những phán xét, đánh đồng và quy chụp.

“Ugwu mang trong mình đầy những ý nghĩ trưởng giả trong khi Harrison luôn trong tâm thế sính ngoại, nấu những món Tây đến độ quên mất hương vị bản xứ;”

Không những thế, Adichie cũng lần mò mang đến lí tưởng của thế hệ tinh hoa như hướng nhìn ngược lại của những kệch cỡm trên kia. Adichie, lại một lần nữa, rất khéo trong cách chọn nhân vật, cô không ra chợ để rồi mang hết đầy đủ những người ngoài ấy vào trong tiểu thuyết mình; cũng không cố gắng xây dựng một nhân vật hoàn toàn tốt hay xấu; mà cô chọn lựa để rồi góp nhặt những gì tiêu biểu nhất. Onegdibo, Olanna và những người bạn giáo sư – tiến sĩ những tối hội họp trong mùi Brandy cùng món súp ớt của Ugwa một phần nào đó đưa ta về lại những năm 40 trong Cuốn sổ vàng của Doris Lessing. Ở đây họ cùng nhau uống, cùng nhau bàn luận và dấn thân vào cuộc nội chiến của đất nước mình. Họ tranh cãi, ca ngợi, phỉ báng lẫn nhau. Trong một nhóm nhỏ, Adichie lại vặn xoắn cây bút của mình biến họ thành ra những nhóm nhỏ hơn, ở thế đối đầu hay là quy phục để không rào trước đón sau, dẫn hướng người đọc mà cố gắng công tâm nhất, đa chiều nhất, phơi ra lý tưởng cùng luồng suy nghĩ vào thời khắc ấy. Trong những ngày thấp thỏm bơm rơi ở Nsukka ấy, tầng lớp tinh hoa cũng đồng thời phân tán lý tưởng của họ, về nội chiến, về hướng đi và về chủ nghĩa xã hội. Onegdibo như hiện thân cho những lý tưởng Cách mạng ở thời điểm này, khi:  “Làm sao chúng ta có thể chống lại sự bóc lột nếu chúng ta không có phương tiện chúng giúp ta hiểu thế nào là bóc lột?” Một lần nữa phải nói rằng, Adichie mang đầy vẻ gai góc trong ngòi bút riêng mình khi phơi ra hết những lý tưởng của thời khắc ấy, một cách rõ ràng và đầy thuyết phục.

Doris Lessing của chủ nghĩa chiết trung

Một điểm cũng được đề cập và không khó để nhận ra trong tiểu thuyết này là chủ nghĩa nữ quyền. Nữ quyền của riêng bản thể người da trắng đã đủ phức tạp, đằng này là người da đen trong bối cảnh bị chiếm đóng lại mang vẻ chông chênh gấp bội phần hơn. Aidichie xây dựng hình tượng hai chị em song sinh Keanne và Olanna cũng đầy tính toán ở hai con đường mà họ chọn đi. Nếu Olanna mỏng manh, yếu đuối và đầy học thức mang nhiều tính nữ; thì ở chiều ngược lại, Keanne lại mang bản tính hoang dại như một đại diện phù hợp cho người bản xứ. Không quá sa đà vào trong bối cảnh tưởng như đã đủ thu hút, Adichie xây dựng số phận của hai chị em họ đầy những trúc trắc đến nỗi, với Nửa mặt trời vàng, ta dễ tách riêng nó thành hai phần: một bên dã sử nội chiến và phía bên kia là tiểu thuyết tình yêu đương thời. Nói thế không có nghĩa cô tham lam khi mang quá nhiều vào trong Nửa mặt trời vàng, mà với cuốn tiểu thuyết này, Adichie đã chứng minh được khả năng làm chủ và chi phối tình tiết. Những trúc trắc trong cuộc đời hai người phụ nữ ấy nhịp nhàng trôi theo dòng chảy lịch sử. Trong những biến động của đất nước mình, họ cũng đồng thời nếm trải đầy đủ hương vị yêu đương: từ ngọt ngào, hăng say đến đắng cay, tội lỗi; từ khinh thị, xem thường đến thiêng liêng, nâng đỡ,… Adichie rõ ràng ý thức được thiên mệnh của mình trong tiểu thuyết này, khi cô không chỉ là người Nigeria mà còn là một phụ nữ. Cô thể hiện tính nữ ở riêng hai bản thể khác nhau, nhưng bằng cánh gán ghép song sinh, nó vẫn nằm trong một con người. Nếu Olanna ngập ngụa trong thứ men tình dẫu bị phản bội không chỉ một lần, thì Keanne vượt lên như thứ bản năng mạnh mẽ vốn có của xứ sở này. Cô nói đôi lần trong cuộc tình mình: “Anh đã lầm khi nghĩ là tình yêu không còn chỗ cho những chuyện khác. Rất có thể người ta yêu một cái gì đó nhưng vẫn khinh thị nó”. Keanne vờn quanh Richard, cô ý thức và hiểu rõ được tình cảm của mình, nhưng một điều rõ ràng rằng: cô khinh thị anh, khi anh bất lực, khi anh dẫu cho đã ngủ với Olanna,… nhưng cũng đồng thời, cô trân trọng và quý mến anh. Adichie lại một lần nữa tự mình ngập sâu vào trong thứ bùn hiện sinh, không chỉ đồng thời kéo chính cô xuống, mà song song đó là những người đọc quăng mình theo cô.

“Nữ quyền của riêng bản thể người da trắng đã đủ phức tạp, đằng này là người da đen trong bối cảnh bị chiếm đóng lại mang vẻ chông chênh gấp bội phần hơn.” 

Ở một mặt nào đó, Adichie đạt đến thành tựu ngang ngửa Doris Lessing khi là một trong hai người phụ nữ kể câu chuyện thời đoạn trong căn phòng của riêng mình. Cùng viết về những biến động đời sống, về chủ nghĩa xã hội và thứ chủ nghĩa nữ quyền đôi khi cực đoan; Adichie mang đến người đọc một phiên bản khác của Cuốn sổ vàng nhưng trần trụi và giản tiện hơn. Nếu Doris Lessing chọn nước Anh thập niên 50 và Anna Wulf như một “phụ nữ tự do” đam mê lý tưởng Cộng sản, thì Adichie lại chọn Nigeria thập niên 60 và Olanna hay Keanne đầy nét bản xứ. Nếu Doris Lessing chọn châu Phi những năm 40 nơi nhóm phù phiếm đi tìm bản thể chính mình, thì Adichie lại chọn chính phòng khách ở Nsukka như nơi tầng lớp tinh hoa bấy giờ tụ họp. Duy điều khác là với Cuốn sổ vàng, Doris Lessing tự bản thân không sở hữu một bối cảnh biến loạn tự mình cuốn hút người đọc như Nửa mặt trời vàng, do đó bà chủ yếu đi sâu vào khai phá những hỗn loạn xoay vần trong tâm trí Anna. Còn Adichie, bản thân vốn sẵn phân thân giữa hai mặt chính: một bên là những bối cảnh và phía bên kia tâm lý nhân vật, rõ ràng không thể đào sâu một cách đầy đủ như Doris. Nhưng dẫu thế nào đi nữa, Adichie cũng đã ghi tên mình vào danh sách những người phụ nữ với một bút lực vô cùng mạnh mẽ, vừa thể hiện bản thân, vừa là tiếng nói thời đoạn.

Hiện thực đời sống

Doris Lessing từng viết trong Cuốn sổ vàng: “Hiện thực là một khẩu súng và nó sẵn sàng bắn hạ bất cứ ai cản trở tiến trình của nó”, và rõ ràng với Nửa mặt trời vàng, Adichie đã không sử dụng hiện thực như một khẩu súng, mà vốn chính bản thân nó đã mang đầy đủ bất hạnh của thứ dịch tả ghé ngang. Bản thân cuốn tiểu thuyết mang trong mình một câu chuyện lớn – câu chuyện về những xung đột tôn giáo, tín ngưỡng, lí tưởng được che giấu dưới bàn tay thực dân Anh làm nên một cơn thảm sát cuồng loạn. Nội chiến Nigeria mà Adichie khắc họa rõ ràng là thứ ai cũng muốn quên, được cô phản ánh một cách thật nhất nhưng cũng sống động nhất. Tương tự Alice Hoffman trong Những người nuôi giữ bồ câu khi khắc họa lịch sử Israel cổ đại đương lúc hơn 900 người Do Thái cổ thủ trong pháo đài Masada bị thảm sát bởi quân La Mã, Adichie cũng viết nên những điều tương tự. Nạn đói, giết chóc, diệt chủng, tất cả hiện lên rõ ràng như những thước phim quay chậm, đôi dòng mà cô viết miêu tả nạn đói không thể không khiến chúng ta nản lòng: “Mùi hôi thối của những thân thể không được tắm rửa và mùi thịt rữa trong những hố huyệt nông choèn choẹt đằng sau dãy nhà càng lúc càng nồng nặc. Ruồi bâu quanh những vết lở loét trên người trẻ con. Rận và kwalikwata bò khắp nơi; đàn bà thỉnh thoảng kéo mấy tắm khăn quấn của mình để lộ những vết đỏ do bị rận cắn xung quanh eo của họ, giống như những nốt phát ban rỉ máu.”

Đứng cùng hàng ngũ với Rohinton Mistry trong Cân bằng mong manh khi phơi bày nhân quần quá nhiều biến động, Adichie tự mình đưa ra tiếng kêu xé lòng ra ngoài thế giới. Cô viết về một Phi châu không hẳn chỉ có nội chiến, đói nghèo và những đứa trẻ suy dinh dưỡng; mà còn hơn thế, cô như đối thoại với thế giới ngoài kia cách con người ta nhìn nhận lẫn nhau giữa những sinh thể ngang hàng, giữa những yêu thương đồng loại, như tựa đề quyển sách mà Ugwu viết sau này trở thành Nửa mặt trời vàng: Thế giới im lặng khi chúng ta chết. “Thế giới phải biết sự thật về những gì đang xảy ra bởi họ không thể lặng thinh trong khi chúng tôi chết”. Rồi như một sự buông xuôi bất lực sau những tính toán lột sạch bản thể con người, Adichie buông bút đầy mỏi mệt: “Nhưng liệu đó có phải là toàn bộ giá trị của sự sống còn? Rằng đời sống là trạng thái phủ nhận cái chết?” rồi cuối cùng cười gằn trong nỗi bất lực: “Cái tên bây giờ nghe như một sự giễu cợt. Chidiebele: Chúa nhân từ”. Adichie rõ ràng đã vô cùng thành công khi không những kể được câu chuyện mang nhãn “cấm xuất khẩu” của đất nước mình ra ngoài thế giới, mà còn thành công hơn thế khi đưa được tiếng nói của cá nhân mình, đưa được góc nhìn của toàn thế giới đối với một Biafra nhỏ bé ra ngoài công luận. “Nạn đói là vũ khí của người Nigeria trong cuộc chiến. Nạn đói đánh gục Biafra và mang danh tiếng đến cho Biafra, làm cho Biafra trường tồn như quốc gia này đã tồn tại. Nạn đói khiến mọi người trên thế giới chú ý và biểu tình phản đối ở London, Moscow và Czechslovakia. Nạn đói làm Zambia, Tanzania, Bờ biển Ngà và Gabon công nhận Biafra. Nạn đói đã đưa châu Phi vào trong cuộc tranh cử của Nixon […] Nạn đói thúc đẩy những cơ quan thiện nguyện mang thực phẩm bằng máy bay đến Biafra [..]. Nạn đói thúc đẩy nghề chụp ảnh. Và nạn đói làm Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gọi Biafra là cuộc cứu trợ nguy hiểm nhất kể từ Thế chiến thứ Hai.”

Kết

Với Nửa mặt trời vàng, ngòi bút Adichie như lưỡi dao phá tan bụi rậm, mà ở đó hiện thực mang trong lòng phôi thai những tâm tính nhân quần được đưa ra ngoài ánh sáng. Adichie đã chứng minh được tài năng của mình, khi mượn một bối cảnh quá nhiều hỗn loạn của Nigeria để làm bật lên trong đấy là chủ nghĩa nữ quyền, là những lý tưởng chủ nghĩa xã hội và trên hết, là cách chúng ta đối xử với nhau. Adichie sử dụng hình ảnh bé gái đã chết với đôi mắt to tròn trắng dã, tết mái tóc bím được đặt trong chiếc bầu gỗ có những họa tiết đan chéo; như ngầm ngụ ý nói rằng, trẻ thơ – thứ bản tính hiền lành và thánh thiện nhất, cũng đang chết dần chết mòn trong lớp vỏ của chiến tranh hận thù. Rõ ràng như một nhận định, Nửa mặt trời vàng có số mệnh của một tác phẩm kinh điển, thì Adichie với tài năng của mình, cũng có số mệnh nối tiếp và trở thành một Doris Lessing thứ hai với tiếng nói dân chủ, nữ quyền khoét sâu vào lòng thế giới.

Hết.

Ngô Thuận Phát


Đọc những bài viết của Ngô Thuật Phát.


Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng