Phía sau trang sách

International Booker 2020: Những dự đoán trước thềm trao giải

Published

on

Giải Booker Quốc tế từ lâu đã mang đến nhiều cảm xúc bởi sự đa văn hóa, đa ngôn ngữ và những phông nền bối cảnh đậm màu khác nhau, khác xa giải Booker chính thống là sàn diễn ngự trị từ lâu của những cái tên quen thuộc từ Khối Thịnh vượng chung. Nếu năm ngoái chứng kiến sự quay trở lại ngoạn mục (mà không khó đoán) của Margaret Atwood cho phần 2 của Chuyện người tùy nữ – đồng trao cho Bernardine Evaristo với cuốn tiểu thuyết đầy nữ quyền của cô; thì ở hạng mục Booker Quốc tế là sự góp mặt của Tàn Tuyết – ứng cử viên được nhà cái đặt cược ngang bằng Murakami cho giải Nobel 2019 – với cuốn Chuyện tình thế kỷ mới. Năm nay do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19, buổi công bố kết quả đã phải hoãn từ 19.05 đến hôm nay 26.08, để xác định chủ nhân của giải thưởng trị giá 50.000 euro.

Danh sách đề cử rút gọn của giải thưởng năm nay gồm cả những cái tên quen thuộc lẫn lần đầu xuất hiện trên văn đàn thế giới. Quen thuộc có thể kể đến nữ tác gia Nhật Bản Yoko Ogawa với cuốn The Memory Police (tạm dịch Cảnh sát ký ức), nhà văn người Đức Daniel Kehlmann với Tyll. Những cái tên mới xuất hiện với tuổi đời rất trẻ như Marieke Lucas Rijneveld với cuốn tiểu thuyết đầu tay The Discomfort of Evening (tạm dịch Cái bứt rứt trong buổi tối trời) hay nhà văn Úc tị nạn gốc Iran Shokoofeh Azar với cuốn tiểu thuyết đậm nét hơn những cuốn sách trẻ em trước đây của mình, The Enlightenment of The Greengage Tree  (tạm dịch Ánh sáng phía trên cây mận). Ngoài ra còn có nhà văn người Argentina Gabriela Cabezón Cámara với The Adventures of China Iron (tạm dịch Những chuyến du hành của China Iron) và Hurricane Season (tạm dịch Mùa cuồng nộ) của Fernanda Melchor người Mexico.

Nhìn chung giải Booker Quốc tế năm nay là sự đối đầu chủ yếu của những phông nền văn hóa. Văn chương vị nghệ thuật có lẽ yếu thế ở lần trao giải năm nay (một thực tế đã xảy ra rất lâu). Hai đối thủ đặc biệt nhất, Yoko Ogawa và Marieke Lucas Rijneveld đối đầu bằng hai phong cách riêng biệt, nhưng khách quan mà nói, giải thưởng năm nay dường như khó đoán và những bất ngờ vẫn còn ẩn chứa phía trước.

Nhóm 1: Yoko Ogawa và Marieke Lucas Rijneveld

Yoko Ogawa có lẽ là cái tên không mấy xa lạ với độc giả Việt Nam thông qua những Quán trọ hoa diên vỹ, Nhật ký mang thai hay Giáo sư và công thức toán. Một điểm rất dễ nhận thấy ở Yoko Ogawa là sự lạnh lùng trong phong cách viết. Nếu Quán trọ hoa diên vỹ, Revenge – 11 Dark Stories và tuyển tập Nhật ký mang thai chứa trong mình cái đè nén của tâm tính con người khi được giải thoát thông qua dục tính, trả thù, tra tấn, đe dọa; thì Giáo sư và công thức toán lại là một mặt phản chiếu khác, khi hiện thân của tâm tính trở lại, nơi giá trị nhân văn được đề cao. Và, một cách rõ ràng, The Memory Police là tổng hòa của hai cá tính này trong văn chương Yoko Ogawa.

The Memory Police (tạm dịch Cảnh sát ký ức)
Ảnh: Books & Bao

The Memory Police là câu chuyện của nữ tiểu thuyết gia sống trên hòn đảo không tên, nơi ký ức được xem như một mối hiểm nguy. Cứ cách một khoảng thời gian, một thứ gì đó sẽ lại biến mất và rơi vào quên lãng. Từ đây, cảnh sát ký ức nghiên cứu và phát triển khả năng nhận biết những ai kháng lại sự tan biến bằng cách phân tích chuỗi gene, và đây là lúc những người bình thường phải chạy trốn sự truy bắt. Cô nhận che giấu R – biên tập viên, người hiệu chỉnh tiểu thuyết của mình, vì anh là một con người “hoàn toàn” – nghĩa rằng vô cảm trước mọi sự biến mất. Cũng trong lúc đó, thế giới ngoài kia mọi sự dần đổi thay. Từ loài chim biến mất, cho đến hoa hồng, trái cây, tấm ảnh, lịch bàn, tiểu thuyết, chân trái, tay phải,… và cuối cùng là tất cả.

Tuy được viết từ năm 1994, trải qua gần hai thập kỉ biến động nhưng rõ ràng The Memory Police vẫn thức thời, luôn động cựa và là tiếng vọng lớn vào thế giới chúng ta đang sống. Nó đứng đó như cách nhìn sâu vào thế giới tương lai mà hình dáng ngôn từ là phản chiếu của những gì hiện tại. Dù nhìn cuốn sách này dưới góc độ nào – một thể utopia hy vọng hay dystopia uất nghẹn, ít ra The Memory Police đã cho ta thấy một điều gì đó quan trọng hơn, về vai trò của ký ức, về thế giới quan cá nhân, về mối quan hệ con người, về hy vọng và hằng hà sa số những điều khác.

Trong khi đó với Marieke Lucas Rijneveld, The Discomfort of Evening là khúc phim tái hiện khung cảnh trang trại nơi gia đình họ – một kiểu bán tự thuật với phần lớn dữ kiện thật sự diễn ra, ghi dấu bước đầu tiên dấn thân từ địa hạt thơ ca để đến với tiểu thuyết. Cuốn tiểu thuyết này như đúng tên gọi của nó, gây ra không ít sự khó chịu cho người đọc bởi mức độ phá hủy, ngang tàn, bất cần và hoang dại của tuổi mới lớn, của bản thân tác giả, của nhận thức non trẻ và của Hà Lan lạnh cóng muôn niên.

The Discomfort of Evening  (tạm dịch Cái bứt rứt trong buổi tối trời)
Ảnh: Medium

Tiểu thuyết mở đầu bằng bữa tối hai ngày trước Giáng sinh của một gia đình nông dân kính Chúa, nơi ngôi kể chính – Jas – cô bé 10 tuổi, chứng kiến sự u ám nối tiếp lẫn nhau. Phát súng đầu tiên là cái chết của Matthies khi cậu bé lọt vào hố băng khi đương trượt tuyết. Ám ảnh sâu sắc vì cái chết của đứa con trai, người mẹ bỏ ăn còn người cha cố chống chịu từng ngày, trong khi những đứa trẻ còn lại thoi thóp trong sự áp đặt. Nhưng vòng kiềm tỏa không dừng ở đó, nó thít chặt hơn khi đàn bò lâu đời dần dần mất đi bởi dịch bệnh. Chỉ đến khi ấy, tất cả mới sụp đổ hoàn toàn. Họ nhợt nhạt, buồn thương và vô định trước những ý nghĩ cuộc sống. Cũng từ trong đó, bản chất yếm thế dần dần hiện ra, sự tự khám phá của những đứa trẻ dần bộc lộ.

Với một kịch bản buồn thương nối tiếp buồn thương, Marieke dẫn dắt người đọc đến bi kịch một cách từ từ, để rồi bất chợt nhận ra, sau bi kịch này là bi kịch khác, nối tiếp – không ngừng. Bằng những thô ráp thách thức lạ lùng với lối tiếp cận văn chương thường thấy, Marieke – thông qua đặc trưng rất Hà Lan – đã viết nên The Discomfort of Evening như một nồi hơi sôi sùng sục – nơi con người ta bị thách thức, nơi họ e sợ phát hiện bản thân vốn đã từ lâu chôn giấu những bi kịch khác. Cây bút sinh năm 91 và cuốn tiểu thuyết bán tự thuật đầu tay như tiếng nói lạ cho một cá tính rất khó hòa trộn và nổi bật lên. Dũng cảm, thẳng thắn và vô cùng bộc trực, đánh thức nơi người đọc một niềm nghi ngại.

Bookish dự đoán: Booker vốn từ trước nay khá ngại lối viết thể nghiệm, Marieke mang đến cảm giác ngang tàn kiểu rock-chic ít được lòng giới chuyên gia, mặc cho câu chuyện vô cùng thú vị. Cộng với kết quả trao giải cho Margaret Atwood năm 2019, Yoko Ogawa dường như là cái tên ổn định và dễ đoán hơn, mặc cho sự độc đáo vượt trội chưa ngang bằng The Discomfort of Evening.

Nhóm 2: Daniel Kehlmann và Gabriela Cabezón Cámara

Tương tự Yoko Ogawa, Daniel Kehlmann đến với độc giả việt Nam từ rất sớm thông qua Đo thế giới. Với Tyll, ông đã khắc họa một thế giới cổ tích pha lẫn hiện thực, nơi bối cảnh trung cổ của phù thủy, bùa ngãi, thần chú, gánh xiếc… thay phiên nhau phác họa nên nhân vật chính vô cùng điển hình kết hợp với cuộc chiến giành lãnh thổ của lục địa già thế kỷ XVII với nhiều biến động xoay quanh tranh giành quyền lực, bệnh dịch hạch, tẩy chay dị giáo…

Tyll
Ảnh: Wilko Steffens

Tiểu thuyết là câu chuyện về Tyll – kẻ lang thang, người trình diễn xiếc dây, sinh ra khi cha anh – một người thợ xay, một nhà ảo thuật sớm có những xung đột với nhà thờ bởi làn sóng tẩy chay dị giáo. Tyll chạy trốn cùng con gái người thợ làm bánh qua đất nước bị tàn phá bởi Chiến tranh Ba mươi năm. Từ đây, họ gặp gỡ nhiều người và gắn kết cùng nhau: học giả – nhà văn trẻ Martin von Wolkenstein, tên đao phủ thần sầu Tilman, Pirmin – kẻ tung hứng, con lừa biết nói Origines, cặp vợ chồng hoàng gia vụng về gây nên chiến tranh Elizabeth và Friedrich von Böhmen lưu vong, bác sĩ Paul Fleming viết thơ bằng tiếng Đức, tu sĩ Dòng Tên cuồng tín Tesimond và Athanasius thông thái. Số phận của họ kết hợp cùng nhau để tạo thành bản hùng ca của Chiến tranh Ba mươi năm và những giễu nhại chính trị trong suốt thời đoạn này.

Tuy thế với Tyll, dường như hai phần của tiểu thuyết không hề cân xứng. Nếu nửa đầu là câu chuyện ấu thời nơi làng quê cùng bối cảnh thần thoại, phù thủy, pháp thuật vô cùng cuốn hút; thì nửa sau khi qua cuộc chiến Ba mươi năm, sức hút của tiểu thuyết giảm dần, đến một mức độ khá nhàm chán và thể trạng hành xác. Vốn dĩ thời đoạn thế kỷ XVII của lịch sử châu Âu không quá cuốn hút người đọc (mà Lâu đài sói là một điển hình ở Việt Nam cho tình trạng phủ bụi), nên sức cuốn hút của Tyll giảm dần. Nhưng nghịch lý ở chỗ, ở phương Tây, đây dường như là một bom tấn khi phát hành tương tự ba phần của Hilary Mantel, và biết đâu, rất có thể nó sẽ trở thành một phiên bản Lâu đài sói thứ hai của Đức?

Còn với The Adventures of China Iron, đây là hành trình lý thú của cuộc chiến giành lại lãnh thổ từ địa chủ da trắng, là bức chân dung khắc họa tộc người da đỏ; ẩn sâu bằng những tình cảm thầm kín giữa hai người đàn bà, của phong trào nữ quyền trong cách viết hóm hỉnh mà đầy tinh tế của Gabriela Cabezón Cámara.

The Adventures of China Iron (tạm dịch Những chuyến du hành của China Iron)
Ảnh: Laura Jones

Được cách tân từ bài thơ Martín Fierro của nhà thơ người Argentina José Hernández, cuốn tiểu thuyết đặt trong bối cảnh thuộc địa, khi dân Anglo từ lục địa già di dân sang Argen tìm mảnh đất phát triển mới. Từ đó đàn áp dân địa phương, bắt các gaucho (tương tự cao bồi ở Mỹ) vào quân đội Anh, gây ra nhiều bi kịch. Tiểu thuyết gồm ba phần chính. Phần 1 là chuyến du hành của Liz tìm chồng bị bắt, của Iron chạy trốn người chồng vũ phu và Rosario bỏ nhà đi vì cha thứ hắt hủi, cạnh bên chú chó nhỏ trong những chuyến xe bò. Phần 2 khi ở điền trang của Hernández (tên nhà thơ), Liz và China lên kế hoạch giải cứu các gaucho bị bắt. Phần 3 là khi bốn người họ gặp thổ dân da đỏ địa phương trên sa mạc. Họ gặp lại Fierro và Oscar – hai người chồng. Cũng ở đây Fierro gặp biến cố và yêu một gaucho khác đã cứu lấy mình. Liz, China, Fierro và Oscar ở lại chung sống với bộ lạc, giúp họ chạy trốn vào rừng khi quân Anh với vũ khí đầy đủ đang lăm lăm xâm chiếm để tập trung lối sống với con nước, một kiểu sống mới dựa vào thiên nhiên. Liz bị buộc phải che giấu tình cảm với China; China trong mối quan hệ với một nữ chiến binh khác và sống hòa hợp với bộ tộc.

Cũng tương tự Tyll, The Adventures of China Iron có kết cấu và bối cảnh khá cuốn hút, thế nhưng ở phần 3, khi cuộc chiến chống người da trắng xâm lấn, Gabriela lại đi quá nhanh và nông, không nhận thấy đủ sức nặng của thời đoạn này. Một điều đáng tiếc cho hành trình khởi đầu vô cùng lý thú, với những phân tích tâm lý, tình cảm, nội tâm vô cùng chi ly và tinh tế.

Bookish dự đoán: Hilary Mantel không chỉ một lần được trao tặng Booker danh giá, và dễ đoán với một lịch sử châu Âu huy hoàng thì Tyll có khả năng bao nhiêu so với một China Iron nhỏ bé phản ảnh thời đoạn đáng quên khi người da trắng phô trương vũ trang. Tyll có một điểm cộng không thể phủ nhận.

Nhóm 3: Shokoofeh Azar Fernanda Melchor

Tương tự nhóm 1 khi sự tương phản thể hiện ở cách viết của hai tác gia, thì nhóm 3 lại là sự tương đồng khi khai thác những đặc trưng vô cùng riêng biệt nơi quốc gia họ. Nếu Shokoofeh Azar viết về những năm Cách mạng Hồi giáo, giữa những xâm nhập, bạo loạn mới – cũ đảo chiều luân phiên; thì Fernanda Melchor viết về một Mexico đầy biến động mà ta quen thấy trong 2666 hay Đêm Chile của Roberto Bolano với tệ nạn, ma túy trá hình diễn ra luân phiên. Có thể nói, ngoài khả năng kiểm soát cốt truyện, phong cách viết đạt đến bậc thầy một cách nhuần nhuyễn, bối cảnh lịch sử cũng là phần chính yếu góp nên điểm đặc biệt của hai tác phẩm này. Cuối cùng thì vị nghệ thuật và vị nhân sinh đã tìm thấy nhau, đến được với nhau.

Hurricane Season (tạm dịch Mùa cuồng nộ)
Ảnh: Southern Review of Books

Về nội dung, Hurricane Season là tập hợp những câu chuyện tội ác được lồng ghép vào nhau xung quanh cái chết của nhân vật “Witch” – một phù thủy không danh tính, tên tuổi, không một manh mối truy dẫn sâu xa; chỉ biết vào một ngày cô ở đó và thừa hưởng danh tiếng từ người mẹ cũng là phù thủy của mình. Với lối sống khép kín và những đồn đại về gia sản, cô từ lâu trở thành mục tiêu cho những kẻ tham lam hướng tới, từ bọn cảnh sát biến chất đến lũ ma cô gần mình, từ người bình thường nhất đến kẻ dị biệt nhất… Tất cả bọn họ như loài cú săn chực chờ cạnh bên để mở cánh cửa khóa kín vào trong ngôi nhà, nơi ẩn đằng sau tấm mạng che kín và bộ đồ đen thường trực là ánh sáng nhấp nháy của sàn disco, của ma túy, của khói thuốc, của những đam mê xác thịt từ trong bữa tiệc trác tán. Từ trung tâm là nhân vật “witch”, Fernanda Melchor tỏa ra những hướng khác nhau là câu chuyện của những nhân vật có liên quan đến vụ án mạng, để rồi từ đó tầng tầng lớp lớp tội ác xếp chồng lên nhau, dần dần đưa ra phía trước ánh sáng.

Trong khi đó, The Enlightment of the Greengage Tree lại khắc họa một thời đoạn vô cùng đảo điên của Cách mạng Hồi Giáo, khi những tiên tiến phương Tây của Pahlavi trở nên yếu thế trước sự độc tài thần quyền của Khomeini. Đi theo nhân vật chính là cô con gái đã chết do bị thiêu rụi trong một cuộc nổi dậy, tiểu thuyết phân theo những ngã số phận của gia đình ấy: của cậu con trai bị bắt vì gia thế có học, của cô con gái đi theo tiếng gọi tình yêu, của người mẹ mất hồn leo ngọn cây mận nhìn về phía xa, của người cha lẳng lặng nhìn vào từng đứa con rời xa mình. Lồng lộng như những mạch ngầm vận động dưới hình hài của cuộc chiến vô nghĩa, The Enlightment of the Greengage Tree như sự chuyển dời từ Ấn Độ của Cân bằng mong manh sang Iran đầy biến động.

The Enlightenment of The Greengage Tree  (tạm dịch Ánh sáng phía trên cây mận)
Ảnh: Kayhan Life

Về mặt nghệ thuật, cả Shokoofeh Azar và Fernanda Melchor đều để lại những dấu ấn khó xóa nhòa của mình. Nếu Fernanda Melchor xây dựng một mê cung tiểu thuyết trên nền trinh thám – tâm lý, một kiểu nhiều cửa như 2666 hay Từ điển Khazar để độc giả có thể đọc bất cứ phần nào họ thích mà vẫn logic; thì Shokoofeh Azar mang lại ấn tượng của phong cách hiện thực kỳ ảo, kết hợp tâm linh dị giáo địa phương. Những chi tiết như khi Khomeini bị những bóng ma hành quyết lạc lối trong lâu đài gương do chính mình cho xây hay khi Beeta biến thành người cá, đến sống trong chiếc hồ do người cha xây, lớn lên từng ngày đến khi trở về biển cả và bị giết bởi những tò mò của dòng giống người. Những chi tiết kỳ ảo nên thơ mà ám ảnh của Azar như những dấu mốc rất khó phai nhòa.

Bookish dự đoán: Nhìn chung khả năng thắng giải và sự xứng đáng của cả hai đều ngang bằng nhau. Nhưng Booker vẫn luôn khó đoán. Shokoofeh có sức sáng tạo lấp lánh tuổi trẻ, trong khi Fernanda Melchor lại suy tính kỹ càng đường đi nước bước. John Banville từng thắng Booker với cuốn Biển trước khi chuyển sang series trinh thám dài kì, biết đâu Fernanda Melchor lại người tiếp nối?

*

Nhìn chung, danh sách rút ngắn giải Booker năm nay đạt được tính đa dạng. Nói về truyền thống trao giải những năm gần đây, Yoko Ogawa là sự an toàn và có khả năng cao. Để cạnh tranh với Nobel về sự dị thường, The Discomfort of the Evening là sự nhúng chàm vô cùng sáng suốt. Nhưng ở trạng thái an toàn, Shokoofeh Azar hay Fernanda Melchor ít nhiều cũng khó phản bác khi lựa chọn được đưa ra. Năm nay thật sự khó khăn bởi những yếu tố phái sinh bên ngoài, và lựa chọn người thắng giải, cũng khó khăn không kém.

Hết.

minh.

Cập nhật sáng ngày 27.08.2020:

Không nằm ngoài mong đợi, The Discomfort of Evening, tác giả Marieke Lucas Rijneveld và dịch giả Michele Hutchison đã trở thành chủ nhân mới nhất cho giải Booker Quốc tế năm nay. Thông qua sự trao giải lần này, hội đồng giám khảo đã cho thấy một bước đi mới, dám thách thức và phá bỏ mọi giới hạn để đến với ý nghĩa của văn chương thuần túy không câu nệ. Không e dè như trường hợp Margaret Atwood năm 2019 và cũng tỉnh táo hơn trường hợp Tàn Tuyết bị loại khỏi danh sách rút gọn, kết quả trao cho cuốn sách này rõ ràng nhận được rất nhiều sự đồng tình của người theo dõi.

Từ bài phát biểu của đêm trao giải hôm qua (26.08), Chủ tịch hội đồng giám khảo Ted Hodgkinson đã nhận định như sau: “Đây là cuốn sách bạn không thể bỏ qua. Bạn nhập vào nó, và ở trong nó. Sự chuyển ngữ tuyệt vời của Michele Hutchison là một phần quan trọng để hòa nó vào độc giả tiếng Anh”. Còn Jeet Thayil, một trong các giám khảo cho rằng: “Mọi thứ, từng khoảnh khắc, từng miêu tả… Đây đều là những thứ mới mẻ mà chưa một ai trên thế giới từng làm”.

Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra ngay thời điểm này, liệu chiến thắng của The Discomfort of Evening xuất phát từ nội tại âm ỉ ngầm của cuốn sách, hay từ tình hình ngoại tại quá ư phức tạp? Ted Hodgkinson cũng chia sẻ rằng, ông và các giám khảo tìm kiếm một cuốn sách phản ánh đúng thể dystopia mà chúng ta đang gặp phải – cảnh huống Covid-19, và chính sự ngăn cách ba tháng trì hoãn giải thưởng, ngay bản thân cuốn sách cũng không phải lựa chọn ngay lần đầu đọc. Ngoài tính thời sự sát sao về sự đen tối, Booker cũng mở ra một câu hỏi rất khó trả lời, liệu đây là một nhận thức mới văn chương, hay chỉ đơn thuần là cơ may của thời điểm này?

*

Winner of International Booker 2020
The Discomfort of Evening – Tiếng nói thô ráp của những nghi ngại

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng